Showing posts with label VN's hied reform. Show all posts
Showing posts with label VN's hied reform. Show all posts

Friday, December 30, 2011

"Lơ là chuyện kiểm định chất lượng trường ĐH"

Bài phỏng vấn tôi trên báo Thanh Niên hôm nay. Chép lại để lưu.

Như bất kỳ bài phỏng vấn nào, lời của người nói (là tôi) với sự ghi chép lại của PV sẽ có ít nhiều chỗ không hoàn toàn khớp (vì cách diễn đạt khác nhau). Nhưng cũng là điều bình thường.

Địa chỉ truy cập: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111229/lo-la-chuyen-kiem-dinh-chat-luong-truong-dh.aspx

----
"Lơ là chuyện kiểm định chất lượng trường ĐH"

Năm 2004, Bộ GD-ĐT triển khai chương trình kiểm định chất lượng (KĐCL) tại các trường ĐH trên cả nước. Sau thời gian sôi động, đến nay mọi thứ lại hết sức im ắng.

Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh (ảnh), Phó giám đốc Trung tâm bồi dưỡng và hỗ trợ chất lượng, Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ ngoài công lập - VIPUA, người có nhiều năm làm công tác về KĐCL, cho biết: “Việc KĐCL hiện nay tại các trường ĐH, CĐ nói thật là không mạnh. Ngoại trừ hai ĐH Quốc gia và một vài trường ĐH lớn khác có chuyên gia biết tiếng Anh tiếp cận thông tin đảm bảo chất lượng từ nước ngoài trước khi Bộ GD-ĐT triển khai. Phần lớn các trường đều khá yếu ở mặt này. Hiện nay những hoạt động đảm bảo chất lượng chủ yếu ở hai tầng. Tầng 1 là hai ĐH Quốc gia, được xem là đầu tàu, hiểu biết rõ về KĐCL. Tầng 2 là ĐH Thái Nguyên, ĐH Vinh, ĐH Đà Nẵng, ĐH Huế, ĐH Cần Thơ được một số dự án quốc tế đầu tư. Nhờ hai tầng này, công tác KĐCL từng có thời điểm sôi động lên một chút nhưng hiện tại tất cả gần như giẫm chân tại chỗ”.

Vậy bà có thể cho biết vì sao việc KĐCL tại Việt Nam lại không phát triển?

Đầu tiên là do chính sách và quy định của nhà nước về kiểm định. Bộ GD-ĐT chưa dứt khoát giao công tác KĐCL cho các đơn vị độc lập vì cho rằng không có năng lực. Nhưng nếu thiếu năng lực thì Bộ phải tập huấn chứ? Còn nếu Bộ trực tiếp kiểm định như hiện nay thì người ta cũng không tin tưởng lắm. Dự luật Giáo dục ĐH vừa rồi cũng có chương về KĐCL nhưng còn mơ hồ. Làm thế nào, kiểm định ra sao vẫn chưa được nói rõ. Thứ hai là công tác đảm bảo chất lượng bên trong thì đa số các trường không triển khai được gì nhiều.

Lãnh đạo một trường ĐH ngoài công lập từng cho rằng nhiều trường làm KĐCL chỉ ở hình thức, để đối phó chứ không biết gì. Bà nghĩ gì về việc này?

Trước đây, theo yêu cầu của Bộ GD-ĐT, các trường sẽ tự đánh giá theo mẫu, sau đó gửi báo cáo về Bộ, Bộ sẽ thành lập đoàn để kiểm tra. Nhưng điều này dần trở thành vô nghĩa bởi những trường đầu tiên tự nguyện KĐCL thì có thể thực chất, còn những trường sau thì có hiện thượng sao chép báo cáo của những trường đã được Bộ công nhận. Làm báo cáo để được Bộ đánh giá kiểm định cho qua thì dễ nhưng không đảm bảo được chất lượng thật sự ở các trường này.

Nói đến KĐCL, người ta thường nghĩ đến chuyện kiểm định từ bên ngoài nhưng việc đảm bảo chất lượng từ bên trong mới là quan trọng. Phòng đảm bảo chất lượng của các trường phải là nơi biết hiện trạng trường mình và dự báo được những thách thức cũng như xu hướng phát triển. Chẳng hạn đây sẽ là nơi tham mưu việc học phí nên tăng hay không, nên mở hoặc đóng ngành nào trong năm học mới. Ở Việt Nam hình như điều này chưa xảy ra. Các phòng đảm bảo chất lượng lập ra là do yêu cầu của Bộ GD-ĐT. Công việc chính là viết báo cáo, làm công tác hành chính rồi gửi cho Bộ GD-ĐT. Vì thế, khi công tác kiểm định của Bộ GD-ĐT đang chững lại thì lãnh đạo một số trường nghĩ rằng sự tồn tại của các phòng này là thừa.

Về việc tự đánh giá chất lượng của các trường, có tiêu chí chưa phù hợp với thực tế. Chẳng hạn, tỷ lệ về sinh viên/giảng viên hiện nay theo quy định là khoảng 25 sinh viên/giảng viên. Nhưng thực tế những năm qua, số lượng sinh viên đã tăng khoảng 10 lần trong khi giảng viên chỉ tăng 3 lần. Vì vậy, yêu cầu về tỷ lệ nói trên trong thực tế có lẽ không trường nào đảm bảo được. Tuy nhiên, cho đến nay hầu như trường nào cũng báo cáo là đáp ứng đầy đủ tiêu chí này!

----------
(BOX)
Kiểm định hơn 6 năm vẫn chưa có giấy chứng nhận
Ngày 2.12.2004, Bộ GD-ĐT ký quyết định “Quy định tạm thời về KĐCL trường ĐH” với 10 tiêu chuẩn, 53 tiêu chí. Mỗi tiêu chí có 2 mức kiểm định. Việc công nhận đạt tiêu chuẩn KĐCL theo 3 cấp độ. Cấp độ 1 có ít nhất 80% tiêu chí đạt mức 1 và mức 2; Cấp độ 2 có ít nhất 60% tiêu chí đạt mức 2; Cấp độ 3 có 100% tiêu chí đạt mức 2. Bộ GD-ĐT đã triển khai tập huấn, đánh giá ngoài (quá trình khảo sát, đánh giá của các chuyên gia không thuộc trường ĐH), các trường tự đánh giá và gửi báo cáo về Bộ GD-ĐT. Đến năm 2007, Bộ GD-ĐT lại ra quyết định mới trong đó quy định: trường được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục nếu có 80% số tiêu chí đạt yêu cầu.

Từ năm 2005 - 2008, có 20 trường ĐH tham gia KĐCL đợt đầu. Năm 2009, theo báo cáo của Hội đồng quốc gia kiểm định chất lượng giáo dục, trong số 20 trường được kiểm định có 4 trường đạt cấp độ 1 - cấp độ thấp nhất; 16 trường đạt cấp độ 2 và không có trường nào đạt cấp độ cao nhất (cấp độ 3). Cho đến hết năm 2010, thêm 20 trường ĐH tiếp tục tham gia kiểm định.

Tháng 12.2010, Bộ GD-ĐT ban hành dự thảo Thông tư ban hành quy định về điều kiện thành lập và giải thể, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức KĐCL giáo dục.

Tháng 11.2011, Bộ GD-ĐT lại công bố dự thảo quy định về quy trình và chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục trường ĐH, CĐ và TCCN. Theo đó, KĐCL giáo dục được thực hiện theo chu kỳ 5 năm/lần.

Cho đến nay, vẫn chưa có trường nào được Bộ GD-ĐT cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục.

Đến nay chỉ có ĐH Quốc gia TP.HCM và ĐH Quốc gia Hà Nội mời đánh giá ngoài là tổ chức ngoài nước. Năm 2009, 3 chương trình tại ĐH Quốc gia TP.HCM và một chương trình tại ĐH Quốc gia Hà Nội đều được mạng lưới các trường ĐH Đông Nam Á (AUN) đánh giá đạt tiêu chuẩn kiểm định giáo dục.

Thursday, October 13, 2011

“Đẩy mạnh phân tầng đại học” (Tuổi Trẻ)

Bài cuối cùng trong loạt 3 bài về những lúng túng và bất cập của đại học VN, trong đó có bài “đại học mọc như nấm” trên báo Tuổi Trẻ mà tôi đã giới thiệu hôm qua.

Phân tầng đại học, có các chính sách khác nhau cho những đối tượng khác nhau, cho phép cơ chế thị trường hoạt động trong sự điều phối của nhà nước. Tạo ra một hệ thống kiểm định độc lập, coi trọng vai trò của xã hội dân sự trong việc giám sát hoạt động của các trường. Cung cấp thông tin đầy đủ cho người học để bảo đảm quyền lựa chọn đúng, có những chính sách hỗ trợ người học mà không phân biệt loại trường, chứ không phải chỉ hố trợ sinh viên ở khối trường công lập. Tất cả những điều trên là những kinh nghiệm quý báu của tất cả những nước có một nền giáo dục đại học thành công trên thế giới, trong đó có Mỹ.

Hy vọng những ý kiến được nêu trong loạt bài viết của báo TT, cũng như những góp ý hợp lý của các chuyên gia, những lời tâm huyết của mọi người dân có quan tâm đến giáo dục sẽ được các vị lãnh đạo ngành giáo dục của VN lắng nghe.

Các bạn đọc bài báo trên Tuổi Trẻ hôm nay ở đây.

Wednesday, October 12, 2011

“Đại học mọc như nấm”, bây giờ làm sao?

“Đại học mọc như nấm” là tựa của một bài viết hay, và “điểm trúng huyệt”, trên báo Tuổi Trẻ hôm nay. Có thể đọc ở đây. Nhân tiện, bài báo có phần phỏng vấn tôi ở cuối bài, với (một trong những) tư cách mới của tôi (khoe tí!). ;-)

Nhân đọc bài viết, tôi có thêm một vài suy nghĩ muốn chia sẻ ở đây với tất cả những ai quan tâm. Tôi nghĩ, những việc như thế này nếu chỉ một mình Bộ Giáo dục nói riêng, hoặc nhà nước nói chung, thì không bao giờ giải quyết được. Ở các nước, người ta nói đến vai trò điều chỉnh của thị trường. Tất nhiên chỉ một mình thị trường cũng không được (sẽ có những vấn nạn khác), mà phải có cả hai: vừa thị trường, vừa nhà nước. Kinh điển rồi.

Suy cho cùng, việc các ngành đóng cửa, và một số trường có nguy cơ phá sản, đặc biệt là các trường NCL, chẳng qua cũng là phản ứng theo kiểu “tức nước vỡ bờ” của thị trường đối với những cái chưa hợp lý và lúng túng trong ngành giáo dục hiện nay. Xin nhắc lại, nhà nước nói chung, và Bộ Giáo dục nói riêng, đã làm hết cách, và hết trách nhiệm, tôi tin rằng thế. Chỉ có điều, một mình nhà nước thì không đủ. Giống như gia đình có 2 vợ chồng, chỉ người chồng gánh vác gia đình, người vợ ở nhà chờ chồng nuôi thì rõ ràng sẽ không tốt, ngay cả dù người chồng có thể kiếm đủ tiền để nuôi. Người vợ cần phải được ra ngoài, trước hết là để hiểu biết, để phát triển chính mình, và sẽ cùng gánh vác với chồng tốt hơn. Thành ra, phải để cho cả hai người đi làm, mới tốt.

Vậy thì, trong việc xây dựng và phát triển nền giáo dục của VN, đặc biệt là ở bậc đại học, nơi việc giáo dục có yếu tố thị trường và đầu tư cá nhân rõ nét nhất, chắc chắn là cần có sự tham gia của thị trường vào việc điều chỉnh và định hướng cho sự phát triển giáo dục. “Người chồng nhà nước” cần để cho “người vợ thị trường” tham gia vào việc quản lý “gia đình giáo dục”. Người chồng tất nhiên vẫn đóng vai trò chủ đạo, dìu dắt và định hướng cho người vợ, nhưng đồng thời cũng phải để cho người vợ tự do hoàn toàn trong khuôn khổ và theo những nguyên tắc mà hai vợ chồng cùng đồng ý với nhau. Thì gia đình sẽ phát triển bền vững.

Bằng không thì ông chồng sẽ hết sức vất vả, và bà vợ thì vừa dốt, vừa nhàn rỗi, đâm sinh tật (nhàn cư vi bất thiện) rồi lại bồ bịch lăng nhăng, hoặc đánh cờ, đánh bạc …

Cho phép thị trường (tức tư nhân và sự lựa chọn cá nhân theo lợi ích tư) tham gia vào việc giám sát và quản lý sự phát triển của giáo dục, phải chăng đó cũng là nội dung chính của cái gọi là “xã hội hóa giáo dục” theo chủ trương của Đảng và Nhà nước?
----
Tình cờ lại đọc được bài này, việc thì khác nhưng ngẫm lại thì bản chất cũng giống việc mà tôi nói ở trên, nên đưa về đây luôn để mọi người cùng đọc. Link đây: http://bee.net.vn/channel/4461/201110/Lan-viec-1814419/

Lẫn việc?
11/10/2011 14:16:32

Bộ GD-ĐT sẽ ban hành điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh. Bộ GD-ĐT có làm lẫn việc của xã hội dân sự hay không? Bộ này đã làm thay một số việc của các trường và xã hội dân sự, như quy định chương trình học hay quyết định nhân sự của các đại học...
----
Ba cột trụ - nhà nước, thị trường và xã hội dân sự - như ba cái chân của của một xã hội hiện đại. Ba cái chân ấy đều phải mạnh và cân đối thì xã hội mới phát triển vững bền.

Một thời người ta quyết xóa bỏ thị trường, cái chân thứ hai teo lại; người ta cũng “tạo ra” cái chân thứ ba giả như công cụ của nhà nước. Cái chân nhà nước quá dài và quá mạnh, ba chân khập khiễng nên cái kiềng xã hội chẳng thể vững.


Rồi cuộc sống buộc người ta phải chấp nhận thị trường và chủ động tạo dựng các thể chế thị trường. Tuy vậy việc làm thay thị trường, việc can thiệp vào công việc của doanh nghiệp vẫn còn và hai cái chân này - nhà nước và thị trường - vẫn tiếp tục cần được cải thiện sao cho ngày càng cân đối và mạnh hơn. Thế nhưng, nếu vẫn không tạo điều kiện cho cái chân xã hội dân sự phát triển và mạnh một cách cân đối, thì cái kiềng xã hội sẽ vẫn khập khiễng.

Lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa là mảng hoạt động có nhiều chồng lấn giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Phân vai trong các lĩnh vực này không dễ nhưng có rất nhiều kinh nghiệm có thể học hỏi tuy không nên sao chép một cách thụ động.

Ban đại diện cha mẹ học sinh có nên là một loại tổ chức cứng của hệ thống giáo dục đào tạo như dự kiến của Bộ GD-ĐT hay là loại tổ chức xã hội dân sự? Theo tôi có lẽ nên là loại thứ hai và không nên có các quy định “bắt buộc” trên thực tế, tuy vẫn được coi là để “tham khảo”? Lẫn việc có thể gây thiệt hại. Nó bóp nghẹt sáng kiến từ dưới lên, nó tạo sự “đồng đều- đồng phục” ngược với sự đa dạng vốn có của xã hội.

Hãy tạo khuôn khổ, khuyến khích xã hội dân sự phát triển và dùng các biện pháp khác, như học kinh nghiệm tốt để “hướng dẫn” chúng, thay cho việc ban hành các điều lệ như vậy.

Nguyễn Quang A

Sunday, October 9, 2011

"Tranh cãi ĐH lợi nhuận và phi lợi nhuận" (Vietnamnet)

Qua 5 lần chỉnh sửa, buổi góp ý sáng 5/10 nhiều nội dung trong dự thảo đưa ra vẫn chưa "thuyết phục" được Hiệp hội các trường ngoài công lập Việt Nam.

Số đông các ý kiến cho rằng, những bất cập trong hệ thống giáo dục vẫn chưa được Luật đặt vấn đề giải quyết thấu đáo.

Bà Trần Thị Thu Hà - phó Hiệu trưởng ĐH Hòa Bình băn khoăn, dự thảo chưa phân định rõ hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam. Hơn nữa các chính sách để phát triển GD ĐH cũng chưa rõ, cụ thể: chính sách đầu tư, chính sách cho người học/ người dạy...

Thêm nữa, khi Bộ giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường thì không nên "ôm" việc biên soạn giáo trình dùng chung cho tất cả các trường - bà Hà góp ý kiến. Vì Bộ không giỏi bằng các giáo sư (GS) chuyên ngành được. Cho nên Bộ chỉ cần quy định chương trình phải đạt chuẩn A, B, C...làm căn cứ cho các trường viết sẽ hợp lí hơn.

Nguyên phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT) Lê Viết Khuyến tiếp lời, việc thẩm định chương trình hiện là quá sức đối với Bộ. Vì thời ông còn làm ở Vụ một chuyên viên phải duyệt đến vài trăm chương trình thì làm sao chất lượng? Và cách làm việc của Bộ là khoán cho 1 chuyên viên phụ trách vài chục trường và quét tất cả chương trình đào tạo của các trường - thực tế đã không làm được.

Khi Bộ không làm được thì các sở làm sao làm nổi? Do đó, ông Khuyến đề xuất, khi giao quyền tự chủ cho các trường thì nên giao thực sự chứ không phải phân cấp cho cấp dưới. Còn các trường thực chất vẫn tự chủ nửa vời.

Ngoài ra, để giải quyết những vấn đề lộn xộn trong giáo dục ĐH hiện nay, Luật cần định hướng cụ thể cho sự phát triển GD ĐH. Cần có phân tầng giữa ĐH tinh hoa và ĐH cho số ít. Ví như: ĐH tinh hoa thì cần quy định ngưỡng (điểm sàn), thậm chí ngưỡng cao. Còn ĐH đại chúng thì không cần ngưỡng?

Hiệu trưởng Trường ĐH FPT Lê Trường Tùng cũng cho rằng, nhân việc soạn thảo Luật GD ĐH cần làm rõ loại hình trường CĐ nghề. Đồng thời, cơ cấu lại hệ thống đào tạo...

Song song với đó cần có quy định thế nào là "lợi nhuận" và "phi lợi nhuận". Bởi theo ông Tùng, hiện không có quy định trường tư là "lợi nhuận" hết nhưng cũng không bắt trường tư là "phi lợi nhuận" hết, lời ông Tùng. Do đó quy định cần làm rõ chỉ những trường vì lợi nhuận thì nộp thuế và những trường không vì lợi nhuận thì không phải đóng thuế.

Ông Tùng cho rằng, đã có trường tư thì phải có những quy định trong Luật phù hợp, tránh tình trạng vừa làm vừa sửa.

Đồng quan điểm, Hiệu trưởng Trường ĐH dân lập Hải Phòng Trần Hữu Nghị thẳng thắn, hiện nay hầu hết các trường tư không được vay vốn nhà nước phải đi vay ngoài. Vậy nhà nước căn cứ vào đâu để khuyến khích phi lợi nhuận? Chỉ khi nào nhà nước có đặc ân, đặc lợi nào đó đối với các trường ngoài công lập thì mới đặt vấn đề phi lợi nhuận.

Đại diện Trường ĐH Chu Văn An nhìn nhận, hiện nay giáo dục ngoài công lập đang quặt quẹo rồi thì chỉ có Luật mới trị được. Do đó Luật ban hành phải khắc phục được những khiếm khuyết của hệ thống giáo dục hiện nay.

Tiếp thu các ý kiến góp ý, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ GD-ĐT) Chu Hồng Thanh cho biết, quá trình soạn thảo Luật GD ĐH - Bộ trưởng, trưởng ban soạn thảo luôn chú trọng đề cao tính tự chủ cho các trường. Đây cũng là vấn đề phần quan trọng dự thảo Luật đề ra. Cụ thể, việc xây dựng chương trình, tuyển sinh, cấp phát văn bằng chứng chỉ, bằng tiến sĩ....đều giao các trường đảm nhận.

Vẫn theo ông Thanh, tới đây có thể khâu in ấn văn bằng chứng chỉ cũng giao cho các trường in. Khi đó vấn đề bằng thật, bằng giả sẽ do các trường chịu trách nhiệm. Và việc bổ nhiệm GS, phó GS tiến tới cũng sẽ giao cho trường....

Những ý kiến về vấn đề lợi nhuận, phi lợi nhuận đã quy định ở Điều 61 của dự thảo Luật GD ĐH. Nhiều ý kiến đề xuất nên khống chế ở mức độ nhất định để biết lợi nhuận hay không lợi nhuận. Tuy nhiên, ông Thanh cho biết, việc xác định tỷ lệ trong Luật là rất khó.

Ông Thanh nhìn nhận, dự thảo Luật GD ĐH đang trong quá trình hoàn thiện để trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp tới. Do đó, tất cả những ý kiến đóng góp đều được Ban soạn thảo tiếp thu, tổng hợp làm cơ sở để hoàn thiện ban hành Luật GD ĐH.

•Kiều Oanh
-------
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/42450/tranh-cai-dh-loi-nhuan-va-phi-loi-nhuan.html

Saturday, November 13, 2010

Số liệu giáo dục đại học VN: liệu có so sánh được với ai?

Như các bạn đều biết, công tác chính của tôi hiện nay là ... đánh giá chất lượng giáo dục (nghe to tát quá, phải không). Và mặc dù công tác đánh giá chất lượng chủ yếu dựa trên những phán đoán (định tính) của các chuyên gia (=thành viên đoàn đánh giá ngoài), nhưng cơ sở cho những phán đoán đó luôn luôn phải là những số liệu cụ thể, chính xác và so sánh được. Nhưng hình như số liệu giáo dục VN không có được hai tính chất đó - chính xác và so sánh được. Trong bài này tôi chỉ nói đến một loại số liệu là số sinh viên trên giảng viên (tính theo số quy đổi).

Ai đang làm công tác tại các phòng ban trong trường đại học VN, đặc biệt là các phòng như phòng đào tạo (cần tính toán chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm) hoặc phòng đảm bảo chất lượng (cần báo cáo số liệu về thực trạng nhà trường hàng năm) thì đều không xa lạ gì với các hệ số quy đổi giảng viên của VN.

Nhưng cũng có thể có những người không biết, nên xin ghi lại vắn tắt một số điểm ở đây trước khi tôi ghi lại những băn khoăn của tôi về các hệ số quy đổi này.

Trước hết, cơ sở pháp lý của việc quy đổi. Công văn hướng dẫn cho việc quy đổi này được Bộ Giáo dục ban hành vào năm 2007 (công văn số 1325/BGDĐT ngày 09/02/2007). Có thể tìm được văn bản này tại địa chỉ: http://vanban.moet.gov.vn/?page=1.1&c2=HD (trang web của Bộ Giáo dục).

Một số hệ số quy đổi theo học vị cần nhớ:

Cử nhân = 1
Thạc sĩ = 1.3
Tiến sĩ = 2
Phó giáo sư = 2.5
TSKH = 3
Giáo sư = 3

Ngoài các hệ số quy đổi theo học vị vừa nêu, văn bản hướng dẫn của Bộ còn đưa ra quy định về hệ số quy đổi dành cho giảng viên toàn thời gian, giảng viên kiêm nhiệm, và giảng viên thỉnh giảng như sau:

Cơ hữu (giảng dạy toàn thời gian) = 1
Kiêm nhiệm (= các cán bộ phòng ban) = 0.3
Thỉnh giảng (=ngoài khoa/trường, tức đã tính cơ hữu ở nơi khác) = 0.2

Về quy mô đào tạo cho phép, cần chú ý những quy định tổng quát sau:

1. Số lượng giảng viên cơ hữu phải đảm bảo tối thiểu 60% khối lượng giảng dạy của khoa/trường.

2. Chỉ tiêu tuyển sinh các hệ đào tạo phi chính quy không vượt quá 70% chỉ tiêu sinh viên chính quy đối với khối ngành xã hội-nhân văn, hoặc đa ngành; không quá 90% đối với khối ngành kỹ thuật, và không quá 40% đối với khối ngành y tế.

3. Quy mô đào tạo tính theo tổng số sinh viên quy đổi trên tổng số giảng viên quy đổi vào năm 2012 là 18 sv/gv cho khối ngành xã hội-nhân văn và 15 sv/gv cho các ngành khác, không kể y tế và thể dục thể thao có quy định riêng về quy mô.

(Nhận xét thêm: nếu ai không hiểu sự rối rắm về số liệu giáo dục của VN và sự "khác người" trong công thức quy đổi chi li trong văn bản nói trên thì sẽ thấy những con số về quy mô nói trên là khá ổn, không có gì đáng than phiền. Vì tỷ lệ svqđ/gvqđ của UC Berkeley năm 2009 cũng chỉ là 15.5 - xem ở đây: http://cds.berkeley.edu/pdfs/PDF%20wBOOKMARKS%2009-10.pdf).

4. Hệ số quy đổi sinh viên: sinh viên đại học có hệ số 1, nghiên cứu sinh có hệ số 2.

Tất nhiên những điều tôi liệt kê ở trên chỉ là khái quát, còn chi tiết (khá chi li, tỉ mỉ) thì cần đọc thêm trong văn bản tôi đã nêu và đưa link.

Áp dụng những tỷ lệ trên vào thực tế một khoa mà tôi có số liệu, tôi thấy như sau:

Quy mô sinh viên của khoa: 600 sv cho 4 năm học (chỉ tiêu hàng năm là 150 sv)

Tổng số giảng viên cơ hữu của khoa:

- 4 tiến sĩ (trong đó có 1 trưởng khoa, 1 phó khoa đang đi công tác nước ngoài, 1 giám đốc trung tâm trực thuộc trường, và 1 giảng viên chỉ gửi biên chế ở khoa nhưng cộng tác rất nhiều nơi). Nói cách khác, trong 4 tiến sĩ đó (thực tế chỉ có 3 vì một người đang công tác dài ngày ở nước ngoài) thì chỉ có một người có mặt và là trưởng khoa, tức cũng có chức vụ quản lý, còn lại 2 người chỉ có thể xem là bán thời gian.

Nhưng trên báo cáo thì con số 4 tiến sĩ này vẫn quy đổi ra thành 8 giảng viên (hệ số tiến sĩ là 2).

- 11 thạc sĩ trực tiếp giảng dạy --> quy đổi ra thành 14.3 (hệ số thạc sĩ là 1.3).

- 4 cử nhân tham gia giảng dạy (!) --> quy đổi thành 4.

Như vậy tổng số giảng viên quy đổi là 26.3, tính tròn là 26. Nếu áp dụng công thức về quy mô của năm 2010 cho khối ngành xh-nv là 22svqđ/gvqđ thì tổng số sinh viên hiện nay của khoa là hoàn toàn nằm trong quy mô cho phép, vì riêng giảng viên cơ hữu của khoa đã có thể đảm đương gần hết khối lượng giảng dạy rồi (22*26 = 572), chưa cần mời thêm ở ngoài. (Trên thực tế là có mời, nhưng ít, và chỉ mời những môn khoa chưa có người dạy, hoặc báo cáo chuyên đề vv.)

Khoa này có đào tạo không chính quy, quy mô hiện nay tôi không có số liệu nhưng tạm tính theo quy mô cho phép là 70% số sinh viên chính quy, khoảng 400 sinh viên nữa (600*0.7). Như vậy, tổng số sinh viên của khoa là 1000 cả 2 hệ chính quy và không chính quy. Tất cả đều trong mức quy định, và thậm chí còn phải được xem là rất tốt trong tình trạng tuyển sinh tràn lan tại VN hiện nay.

Tuy nhiên, nếu xét trên thực tế thì khoa hiện nay đang đảm đương một khối lượng công việc rất nặng, và điều đó có thể thấy rõ qua sự tất bật của khoa, cũng như qua việc quan sát và phỏng vấn trong mấy ngày tôi tham gia đoàn đánh giá tại khoa.

Trước hết là việc phải đảm nhiệm không chỉ việc giảng dạy chính quy mà còn cả không chính quy để tăng thu nhập, tức phải làm việc gấp đôi (việc giảng dạy phi chính quy không được tính vào trách nhiệm mà chỉ được xem là để tăng thu nhập - để bù vào thu nhập ... chết đói khi dạy chính quy). Ngoài ra, toàn bộ giảng viên của khoa đều phải tham gia vào các công tác phụ thêm khác như giáo vụ (các hệ khác nhau), công tác đoàn thể (đảng, công đoàn, đoàn thanh niên), tư vấn và hỗ trợ sinh viên, vì khối phòng ban làm không xuể và lương thấp - thấp hơn lương giảng viên - nên thường rất lạnh lùng hoặc cau có và tắc trách đối với sinh viên.

Vậy có phải chăng các quy định của VN không hợp lý? Vâng, tôi có thể khẳng định là những số liệu hiện nay về quy mô đại học VN là ... không giống ai. Vì tôi cũng vừa đi đánh giá một khoa của ĐH Indonesia, một trường công lập lớn hàng đầu của Indo. Ở đó, cách quy đổi giảng viên và sinh viên sang FTE (full-time equivalent, tức tương đương toàn thời gian) cũng trùng với cách tính trong Bộ dữ liệu chung (Common Data Set) của Mỹ, theo đó việc tham gia toàn thời gian hoặc bán thời gian là sự khác biệt duy nhất giữa các loại giảng viên, chứ họ không hề phân biệt bằng cấp, học hàm học vị. Vì bằng cấp học hàm học vị đã được tính vào những chỉ báo về chất lượng, không thể vừa tính chất lượng rồi lại nhân đôi, nhân ba lên để tính vào số lượng nữa!

Công thức tính của CDS là như sau:
- Giảng viên, sinh viên toàn thời gian hệ số là 1
- Giảng viên, sinh viên bán thời gian hệ số là 1/3.

Khi áp dụng công thức của CDS vào khoa mà tôi mô tả ở trên, ta sẽ có:

- Số giảng viên FTE: 19 (19*1; hệ số của giảng viên cơ hữu là 1)
- Số sinh viên FTE: 600 + 133 (=400*1/3) = 733
--> Tỷ lệ svqđ/gvqđ = 38,58 (gần 40 svqđ/gvqđ, tức gấp đôi con số hiện nay).

Nghĩ lại thì thấy cũng dễ hiểu thôi: hiện nay giảng viên muốn đủ sống (cầm hơi) thì phải dạy ngày, dạy đêm, tức là làm với khối lượng gấp đôi. Thì tính theo số sv/gv cũng là gấp đôi đó, chính xác quá rồi còn gì! Đấy là chỉ mới tính có một chỉ số, chứ còn một chỉ số khác, dễ hiểu và cũng không kém phần quan trọng, là số lượng cán bộ và nhân viên quản lý/phục vụ (tiếng Anh là non-academic) so với số lượng giảng viên. Ở VN, hiện không có quy định về điều này, nhưng thực tế cho thấy là tỷ lệ non-academic staff trên tổng cán bộ, giảng viên/nhân viên cơ hữu chỉ vào khoảng 30-35% tổng số cán bộ, giảng viên/nhân viên cơ hữu. Còn ở các nước thì con số này phải khoảng 50-55%.

Nếu không đủ non-academic staff thì hoặc là khoa phải làm (tức các giảng viên phải chia nhau làm, nếu muốn sinh viên cảm thấy được quan tâm và hài lòng với khoa), vậy ước chừng khoảng 20% công việc của khối phục vụ đã được đẩy qua cho giảng viên. Áp dụng vào khoa mà tôi vừa nêu thì phải mất đi ít nhất là 3 giảng viên toàn thời gian để làm công tác phục vụ (một người lo thư viện khoa, 2 người lo giáo vụ của 2 mảng chính quy và không chính quy). Như vậy số liệu bây giờ sẽ là:

1. GV quy đổi: 16 người
2. SV quy đổi: 733 người
3. Bình quân svqđ/gvqđ = 45.81, một con số quá cao, cao hơn mức của giáo viên tiểu học nữa! Hỏi sao mà chất lượng giáo dục đại học của mình không thấp?

Và đây là câu hỏi, cũng có thể xem là khuyến nghị, của tôi: Chúng ta đang muốn đổi mới quản lý, hội nhập thế giới, và ... xếp hạng đại học, tức so sánh với thế giới để xác định vị trí của mình. Vậy chúng ta có nên tiếp tục sử dụng những con số có tác dụng ... an thần như thế này hay không, hay nên nhìn thẳng vào sự thật?

Vì có biết sự thật thì mới biết cái dở của mình là gì và cải thiện một cách có hiệu quả được chứ, phải không?

Friday, October 15, 2010

"Muốn có đẳng cấp quốc tế, trước hết cần chất lượng"

Tựa của entry này là phần dịch thoát một phần trong cái tựa của bài viết mới đây của Dr Rahul Choudaha, nguyên văn tiếng Anh là “From where I sit – World-class aims demand quality”. Có thể tìm thấy bài viết ở đây.

Một bài rất hay, và rất phù hợp với VN. Rất đáng đọc, đặc biệt là các nhà quản lý và lãnh đạo trong ngành giáo dục của VN.

Dưới đây là một vài đoạn trích và tóm tắt cùng bình loạn của tôi.
There is no dearth of self-proclaimed world-class institutions in India, even though when claims of world-class faculty, research or infrastructure are benchmarked to global institutions through proxies such as the THE rankings, they fail miserably. Nevertheless, the term "world-class" is loosely used not only by institutions but also by the government. Unfortunately, the recent announcement of the establishment of 14 "innovation universities" meeting world-class standards has yet to move beyond an attractive concept.

Nhận xét của tôi: tình trạng của Ấn Độ được mô tả trong đoạn trích nói trên sao rất giống VN, chỉ toàn là đẳng cấp quốc tế “tự phong”. Well, VN thì chưa có trường nào tự xưng là đẳng cấp quốc tế cả, nhưng những phát biểu theo kiểu “lọt vào top 200 vào năm …” thì không hề ít. Thế nhưng khi đem so sánh (chính xác hơn là “đối sánh”, benchmarked) các trường thuộc loại “top” của VN với những trường đẳng cấp quốc tế (tức nằm trong top 200 của các hệ thống xếp hạng đại học toàn cầu) trên các khía cạnh như chất lượng giảng viên, thành quả nghiên cứu, cơ sở vật chất vv thì … thấy mình chẳng giống ai hết, vậy không hiểu mình sẽ thành đẳng cấp quốc tế như thế nào đây?

Why does India lack world-class universities? It is easy to point to the lack of resources - money and time - needed to build such institutions. More importantly, however, Indian higher education fails to fully recognise the value of the most essential resource in such an endeavour, namely talent. An awareness of the importance of attracting the best talent - students, faculty and administrators - in delivering quality is sorely missing.

Ở đây lại là một điểm giống nhau khác giữa VN và Ấn Độ. Thiếu tiền, thiếu thời gian, OK, nhưng cũng thiếu một điều quan trọng có tính quyết định khác, đó là thiếu tài năng. Tài năng của người học, tài năng của thầy cô, và theo tôi, quan trọng nhất, là tài năng của những nhà quản lý và lãnh đạo ĐH. Thiếu một cách đau đớn, đó là cách nói của tác giả bài viết – “sorely missing”.

[…] India cannot turn its back on access, nor can it afford to waste its higher-education resources by expanding an inefficient system. Continued expansion without a keen focus on quality will merely result in a larger inefficient system. It is time that quality orientation takes precedence, at least in the short term.

One may argue that India has no need of "world-class" higher education institutions, given the country's resource constraints and widening-access priorities. But I believe that India needs exemplars to raise the overall quality of the system and to provide world-class solutions to its many challenges. Building truly excellent universities will require a comprehensive approach to attract and retain top talent.

Cũng giống VN nữa: phát triển giáo dục đại học dựa trên số lượng chứ không dựa trên chất lượng. Tất nhiên số lượng không phải là xấu vì cần phải tạo điều kiện cho mọi người đến trường. Nhưng cũng như Ấn Độ, VN cần một số trường thực sự hàng đầu để làm mẫu mực cho các trường khác học tập và thúc đẩy chất lượng chung của toàn hệ thống.

[…] India cannot turn its back on access, nor can it afford to waste its higher-education resources by expanding an inefficient system. Continued expansion without a keen focus on quality will merely result in a larger inefficient system. It is time that quality orientation takes precedence, at least in the short term.

One may argue that India has no need of "world-class" higher education institutions, given the country's resource constraints and widening-access priorities. But I believe that India needs exemplars to raise the overall quality of the system and to provide world-class solutions to its many challenges. Building truly excellent universities will require a comprehensive approach to attract and retain top talent.

Cũng giống VN nữa: phát triển giáo dục đại học dựa trên số lượng chứ không dựa trên chất lượng. Tất nhiên số lượng không phải là xấu vì cần phải tạo điều kiện cho mọi người đến trường. Nhưng cũng như Ấn Độ, VN cần một số trường thực sự hàng đầu để làm mẫu mực cho các trường khác học tập và thúc đẩy chất lượng chung của toàn hệ thống.

Vậy phải làm gì? Hãy đọc kỹ câu cuối của tác giả mà tôi trích lại ở đây một lần nữa: “Building truly excellent universities will require a comprehensive approach to attract and retain top talent.”

Vâng, thu hút và trọng dụng nhân tài, đừng để họ phải bỏ nghề vì gạo tiền cơm áo. Chẳng biết chính phủ VN có sẽ sớm có chính sách trọng dụng nhân tài không, hay vẫn để cho chất xám tiếp tục tình trạng bị chảy máu?

“Xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế: Chín sai lầm phổ biến”

Đó là cái tựa đã được biên tập lại của một bài viết của tác giả Salmi, chuyên gia về giáo dục đại học của Ngân hàng thế giới mà tôi đã chọn dịch và gửi đăng trên Tia Sáng. Bài đã được biên tập lại chút ít và đăng cách đây vài ngày, có thể tìm đọc tại đây. Bản gốc tiếng Anh ở đây.

Còn dưới đây là bản gốc chưa qua biên tập của tôi, đưa lên đây để lưu. Các bạn đọc và trao đổi nhé.
-------------------

Chín sai lầm phổ biến khi bắt đầu xây dựng một trường đại học đẳng cấp quốc tế

Jamil Salmi
Phương Anh dịch và giới thiệu

Báo Christian Science Monitor ngày 20/9/2010 đã đưa một bài viết về Việt Nam dưới tựa đề: “Asia’s next economic tiger? Hint: It’s not China or India”, trong đó giới thiệu về trường Đại học Việt – Đức như một mô hình mới trong quản trị đại học Việt Nam. Với mức đầu tư ban đầu là 200 trăm triệu đô la Mỹ và cách điều hành chuyên môn hoàn toàn tự chủ, không chịu sự can thiệp trực tiếp bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngôi trường này hy vọng sẽ trở thành một trường đại học nghiên cứu có đẳng cấp của Việt Nam, với chỉ tiêu lọt vào top 200 thế giới vào năm 2020.

Điều này có khả thi không? Cho đến nay, Việt Nam chưa hề có kinh nghiệm thực tế trong việc xây dựng thành công các đại học có đẳng cấp quốc tế, nên không ai có thể trả lời câu hỏi vừa nêu, mà chỉ có thể phỏng đoán và chờ đợi. Tuy nhiên, theo một bài viết vừa đăng trên trang blog The World View của tờ Inside Higher Education vào ngày 22/8/2010 của Jamil Salmi, chuyên gia về giáo dục đại học của Ngân hàng thế giới, tác giả cuốn sách The Challenge of Establishing World Class University do UNESCO xuất bản, “việc xây dựng một cơ sở giáo dục đại học mới với mong muốn đạt tiêu chuẩn cao nhất là một việc làm cao quý nhưng cực kỳ khó khăn”, thậm chí “đầy cạm bẫy”. Điều đáng mừng là cũng theo tác giả thì những cạm bẫy này không phải là không thể tránh được, nếu chúng ta biết học hỏi những kinh nghiệm của những người đi trước, mà tác giả Salmi đã đúc kết lại thành chín sai lầm cần tránh trong bài viết dưới đây.

Xin trân trọng giới thiệu đến tất cả các bạn bài viết hữu ích này, đặc biệt là cho ngành giáo dục của Việt Nam.
--------------
"Cơ hội tạo ra một tổ chức hoàn toàn mới từ hai bàn tay trắng để đi từ ý tưởng đến hiện thực là một món quà quý hiếm. Nó tạo điều kiện cho nhiều việc mà các trường đại học có bề dày truyền thống khó có thể tưởng tượng ra được. Nhưng nó cũng đòi hỏi phải có tầm nhìn, niềm đam mê, và lòng can đảm để cố gắng đổi mới và quyết tâm tạo ra một nền văn hóa học tập mới tốt đẹp hơn".
Richard Miller, Hiệu trưởng Trường ĐH Olin [xem chú thích số 1 ở cuối bài viết].


Thuật ngữ "đại học đẳng cấp quốc tế" đã trở thành một cụm từ thông dụng để mô tả các trường đại học nghiên cứu đỉnh cao trong hệ thống đẳng cấp của giáo dục đại học. Chính phủ các nước đáp lại sự cạnh tranh toàn cầu bằng cách bổ sung kinh phí để thúc đẩy các trường đại học ưu tú của mình, như có thể thấy qua các "sáng kiến xuất sắc" tại nhiều nước có hoàn cảnh khác nhau như Trung Quốc, Đức, Nigeria, Nga, Hàn Quốc, hay Đài Loan. Trong một số trường hợp, chính phủ khuyến khích các trường đại học hàng đầu của mình hợp nhất lại để đạt được hiệu quả kinh tế nhờ mở rộng quy mô . Một vài nước khác thành lập các trường đại học hoàn toàn mới với mục tiêu rõ ràng là tạo ra các trường đẳng cấp quốc tế.

Tuy nhiên, tạo được một trường đại học mới với chất lượng cao là một điều dễ nói khó làm, vì xây dựng một tổ chức tầm cỡ thế giới đòi hỏi nhiều hơn là những phản ứng tức thời nhằm đạt vị trí cao trong các bảng xếp hạng, hoặc bơm thật nhiều tiền vào ngân quỹ của trường. Nó là một quá trình phức tạp và lâu dài mà chỉ mới gần đây người ta mới thực sự quan tâm. Dưới đây là phác thảo những sai lầm phổ biến nhất trong những sáng kiến thiết lập một trường đại học hàng đầu.

1. Xây dựng một khuôn viên tuyệt đẹp, và hy vọng phép lạ sẽ xảy ra.

Cơ sở hạ tầng hẳn nhiên là phần dễ thấy nhất của một trường đại học mới. Người ta chăm chút vào việc thiết kế và xây dựng một công trình ấn tượng, và điều này là cần thiết. Một cơ sở hạ tầng tốt chắc chắn là một phần quan trọng trong trải nghiệm học tập của sinh viên, và các nhà nghiên cứu cũng cần các phòng thí nghiệm đầy đủ để thực hiện nghiên cứu khoa học ở đỉnh cao. Tuy nhiên, nếu không có cách quản trị thích hợp, đội ngũ lãnh đạo mạnh, chương trình giảng dạy được xây dựng kỹ lưỡng, cùng đội ngũ giảng viên/ nghiên cứu viên có trình độ, thì một khuôn viên xinh đẹp cũng chỉ là một cái vỏ rỗng.

2. Chỉ thiết kế các chương trình sau khi xây dựng cơ sở vật chất.

Có một giả định thường gặp rằng việc dạy - học có thể dễ dàng thích ứng với bất cứ cơ sở vật chất nào, nhưng thực ra những phương pháp sư phạm tân tiến đòi hỏi phải có cơ sở vật chất phù hợp. Ví dụ, các phương pháp tiếp cận tương tác, học tập dựa trên vấn đề, hoặc các phương pháp làm việc theo nhóm và học tập đồng cấp (peer learning) thường bị hạn chế bởi các giới hạn vật lý của các giảng đường và lớp học thông thường. Tầm nhìn, sứ mạng, và kế hoạch dạy - học cần được xác định trước khi xây dựng cơ sở hạ tầng để cái sau được điều chỉnh phù hợp với các yêu cầu của cái trước, chứ không phải là ngược lại

3. Nhập khẩu nội dung giảng dạy từ một nơi khác. Việc gì phải phát minh lại cái bánh xe?

Các nhóm phụ trách việc thiết lập các trường đại học mới thường nhìn vào các trường đại học hàng đầu của các nước công nghiệp phát triển để "mua" các yếu tố trong chương trình giảng dạy của họ thay vì phải trải qua một quá trình lâu dài nhằm thiết kế các chương trình của riêng mình. Mặc dù điều này có vẻ thiết thực và thực tế, đó không phải là cách hiệu quả nhất để xây dựng văn hóa học tập của một trường đại học mới đạt chuẩn mực cao. Các trường hàng đầu của thế giới như Harvard và MIT là các tổ chức mang tính đơn nhất, nên sẽ là không thực tế khi nghĩ rằng có thể tái tạo mô hình học thuật của những trường này ở nơi khác. Và cũng không thực tế khi hình nghĩ rằng có thể cóp nhặt từng mảnh ghép của các trường đại học có uy tín từ những quốc gia và các nền văn hóa khác nhau rồi giả định rằng các mảnh này sẽ ăn khớp lại với nhau để tạo ra một nền văn hóa học thuật và nghiên cứu trong các trường đại học mới.

4. Thiết kế để áp dụng trong “hệ sinh thái học thuật” của các nước OECD, thực hiện ở nơi khác.

Sao chép những đặc điểm cụ thể vốn làm cho các trường đại học hàng đầu ở Bắc Mỹ và Châu Âu thành công – sự tập trung tài năng, nguồn lực phong phú và quản trị phù hợp – là cần thiết nhưng chưa đủ để tạo ra một trường đại học tầm cỡ thế giới. Sẽ rất khó khăn nếu muốn nói là không thể duy trì sự phát triển của các trường đại học khi sinh thái giáo dục đại học của đất nước không hoàn toàn thuận lợi cho sự phát triển ấy. Các yếu tố chính của một hệ sinh thái học thuật bao gồm sự lãnh đạo ở tầm quốc gia (tầm nhìn cho tương lai của giáo dục đại học, năng lực thực hiện cải cách), khuôn khổ pháp lý (cơ cấu quản trị và các quá trình quản lý ở cấp quốc gia và đơn vị), khung đảm bảo chất lượng, các cơ chế tích hợp cho các loại hình tổ chức đại học khác nhau, nguồn lực tài chính và cơ chế khuyến khích phù hợp, kèm theo cơ sở hạ tầng kỹ thuật cần thiết. Sự thiếu vắng của dù chỉ một trong những yếu tố này hoặc sự thiếu đồng bộ giữa các chiều kích khác nhau có khả năng làm giảm tiềm năng phát triển và tồn tại bền vững của các trường đại học mới.

5. Chậm trễ trong việc tạo ra một Hội đồng Quản trị và bổ nhiệm đội ngũ lãnh đạo.

Việc tạo ra một trường đại học mới thường là một quyết định chính trị của giới lãnh đạo, sau đó giao cho một Bộ hoặc một ban dự án kỹ thuật triển khai thực hiện. Điều này thường làm cho việc thiết kế và quy trình triển khai chịu sự quản lý trực tiếp của trung ương. Một dự án tầm cỡ như vậy cần được sở hữu và thực hiện bởi một đội ngũ lãnh đạo năng động, làm việc dưới quyền của một Hội đồng độc lập có khả năng đưa ra những hướng dẫn và sự trao quyền. Một cơ cấu quản trị thích hợp ngay từ đầu là điều rất quan trọng để thành công.

6. Chỉ lập kế hoạch cho những chi phí trước mắt, mà quên đi sự ổn định tài chính lâu dài hạn.

Những người bảo trợ sáng lập một trường đại học mới thường công bố một khoản hiến tặng rất lớn cho việc thành lập trường, nhưng chỉ có vốn đầu tư ban đầu thì không đủ. Cần phải cung cấp đầy kinh phí cho những năm đầu hoạt động trong khi chờ đợi thiết lập được một mô hình kinh doanh đảm bảo rằng tổ chức mới có thể duy trì được chính nó.

7. Đưa ra những chỉ tiêu định lượng quá tham vọng.

Lãnh đạo của các trường đại học mới đôi khi nghĩ rằng họ có thể nhanh chóng tuyển được một số lượng lớn sinh viên, thông thường con số được nghĩ đến là cả chục ngàn. Điều này hiếm khi đạt được mà không ảnh hưởng xấu đến chất lượng. Trong thập niên 1970, tác giả E. F. Schumacher đã viết trong cuốn sách có tựa “Nhỏ là đẹp" rằng các dự án phát triển thành công thường có kích thước nhỏ. Ngày nay điều đó vẫn đúng, đặc biệt là khi xây dựng một trường đại học mới. Nếu chất lượng là vấn đề ưu tiên thì hầu như chỉ nên bắt đầu với một số ít chương trình đào tạo và ít sinh viên. Khi một nền văn hóa học thuật xuất sắc đã được thiết lập thì việc mở rộng dễ dàng hơn.

8. Nghĩ rằng bạn có thể làm tất cả trong vòng mười tám tháng.

Một kế hoạch tham vọng quá mức sẽ tưởng tượng rằng một trường đại học mới có thể được đưa ra hoạt động sau vài tháng và chất lượng cao trong giảng dạy và nghiên cứu có thể được thực hiện trong vòng vài năm. Vội vã trong những bước phát triển ban đầu có thể dẫn đến những quyết định có ảnh hưởng xấu đến chất lượng và chi phí. Xây dựng một trường đại học tất yếu phải là một quá trình lâu dài, đòi hỏi lãnh đạo ổn định, cải tiến liên tục, và sự kiên nhẫn. Điều này đặc biệt đúng khi muốn phát triển những truyền thống khoa học mạnh, rất cần thiết để tạo ra những nghiên cứu mũi nhọn và các ứng dụng công nghệ.

9. Chỉ dựa vào các học giả nước ngoài mà không vun đắp năng lực tại địa phương.

Thuê các học giả nước ngoài là cách làm phổ biến để tăng tốc độ khởi động của một trường đại học mới. Thật vậy, đưa các giáo viên giàu kinh nghiệm và các nhà nghiên cứu đến để giúp đỡ một trường mới là hợp lý, và đó cũng có thể là một chiến lược nâng cao năng lực hiệu quả nếu các học giả này không chỉ nghiên cứu, giảng dạy mà còn có nhiệm vụ đào tạo lớp học giả trẻ hơn và ít kinh nghiệm hơn ở nước sở tại. Nhưng nó có thể là một chiến lược phản tác dụng nếu không có những nỗ lực mang tính hệ thống nhằm thu hút và giữ chân các học giả có trình độ trong nước.

Để kết luận, việc đưa ra một cơ sở giáo dục đại học mới với mong muốn đạt tiêu chuẩn cao nhất là một việc làm cao quý nhưng cực kỳ khó khăn. Con đường để đạt được sự xuất sắc trong học thuật thì đầy cạm bẫy, mặc dù những cạm bẫy này không phải là không thể tránh được, như đã được minh họa trong những phần trên của bài viết. Quan trọng hơn, quyết định xây dựng một trường đại học đẳng cấp quốc tế luôn phải được xem xét trong bối cảnh thích hợp để đảm bảo sự gắn kết với chiến lược giáo dục đại học của đất nước và tránh sự lệch lạc trong phân bổ nguồn lực trong ngành. Tuy nhiên, nếu có một kế hoạch chu đáo và thực tế, việc đạt được sự xuất sắc trong giáo dục đại học luôn có thể được xem như là một mục tiêu xứng đáng và quan trọng.
-------
Chú thích 1:

Richard Miller là Hiệu trưởng của Franklin W. Olin College of Engineering (thường được gọi tắt là Olin College), một đại học tư phi lợi nhuận với tuổi đời khá non trẻ, chỉ mới bắt đầu hoạt động từ năm 2002. Tuy vậy, trong lịch sử ngắn ngủi đó Olin College đã tạo được danh tiếng cho mình, và được xếp hạng trong top 10 những chương trình kỹ thuật tốt nhất nước Mỹ (dành cho các trường nhỏ, không đào tạo tiến sĩ) theo bảng xếp hạng của US News and World Report năm 2010. Lý lịch trích ngang của Richard Miller có thể tìm được ở đây: http://www.olin.edu/faculty_staff/leadership_team_bios/miller.html, truy cập ngày 3/10/2010.

Chú thích 2:
Có thể tìm đọc nguyên văn cuốn sách The Challenge of Establishing World Class University do UNESCO xuất bản ở đây, rất đáng đọc.

Monday, October 11, 2010

"Thực trạng của 'Đại học đẳng cấp quốc tế'"

Đó là tựa bài viết mới trên báo Thanh Niên hôm nay, ở đây.

ĐH đẳng cấp quốc tế cũng là vấn đề tôi quan tâm từ mấy năm nay. Nó được khơi nguồn từ "quyết tâm chính trị" của nhà nước VN trong việc cố gắng xây dựng một vài đại học tốt "ngang tầm khu vực và thế giới" để phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội của VN.

Xây trường mới thì luôn luôn tốt, tôi nghĩ vậy. Xây đại học lại càng tốt, mà nếu đó là đại học đẳng cấp quốc tế nữa, thì còn gì bằng! Cho nên trước hết là tôi ủng hộ hết mình việc xây dựng mấy đại học đẳng cấp quốc tế đó. Ủng hộ hai tay, hai chân, không thắc mắc. Ai mà chống việc xây các đại học đó, là tôi phản đối ngay, không do dự gì cả. Đầu tư vào giáo dục là đầu tư vào tương lai mà lại. Ai, chứ người Việt Nam thì chắc rành điều này lắm: học để thoát nghèo!

Vậy tóm lại, là tôi ủng hộ việc xây dựng các đại học đẳng cấp quốc tế. Mà không chỉ 4, nếu nhiều hơn 4, ví dụ như 40, hay thậm chí 400 (!), thì càng tốt!

Vấn đề là làm như thế nào thôi! Làm như thế nào để đạt được 3 yêu cầu, như hệ thống ĐH của bang California đã đề ra như những phương châm hoạt động của mình, đó là: quality - equity - efficiency. Chất lượng, công bằng, hiệu quả (ở đây là hiệu quả kinh tế, hay hiệu suất, tức không lãng phí ấy).

Và tôi vẫn có chút nghi ngại về mấy trường ĐH đẳng cấp quốc tế của mình. Tôi e chúng có thể đạt được cái đầu tiên - quality, nhưng không tin rằng chúng sẽ đạt được 2 cái sau. Nhất là equity, sự công bằng. Vì chưa cảm thấy con nhà nghèo có thể có điều kiện vào học ở mấy trường đó, khi học phí của chúng tính bằng vài ngàn đô một năm. Không hề dễ cho những học sinh có tiềm năng ở, ví dụ, vùng đồng bằng sông Cửu Long, là một vùng mà không hiểu sao tôi cứ thấy thương thương, gắn bó, dù quê gốc của tôi là ở miền Bắc. Hoặc, tất nhiên, mọi vùng sâu vùng xa và các địa phương nghèo khác của VN.

Và efficiency, hiệu suất kinh tế, sử dụng tiền đầu tư không lãng phí theo kiểu, ví dụ (hoàn toàn tưởng tượng), xây cơ sở vật chất hiện đại khang trang đủ cho 2000 sinh viên, nhưng chỉ hoạt động cho 200 sinh viên. Lãng phí phòng ốc, lãng phí cả đất đai, cả thư viện, cả thiết bị vv vì sử dụng không hết công suất. Và lãng phí cả con người nữa, vì ban bệ cho một trường dù chỉ 200 sinh viên cũng phải đủ hết từ ban giám hiệu đến phòng đào tạo, các khoa, phòng công tác sinh viên vv và vv. Chưa kể lãng phí về tài chính, cái này thì tôi không rành và không thể nghĩ ra được ví dụ ở đây.

Tại sao tôi lại nghi ngại, mà không chịu tin vào nhà nước, vì chúng ta cũng có một hệ thống quản lý và giám sát đầy đủ của nhà nước cơ mà? Thưa, là vì trước giờ công tác giám sát chúng ta làm chưa tốt, nên niềm tin ấy của tôi vẫn còn ... yếu lắm, không đủ lấn át sự nghi ngại của tôi.

Những suy nghĩ ấy là có thật, nên khi trao đổi với phóng viên của báo Thanh Niên, tôi cứ nói thẳng những suy nghĩ của mình ra. Và nó đã được đưa lên báo, hôm nay.

Chẳng biết có làm cho ai phiền không? Cái nhìn của một cá nhân, là tôi đây, chắc chắn sẽ có ít nhiều phiến diện. Tôi không có ý định nói là mình hoàn toàn đúng. Chỉ là những băn khoăn từ góc nhìn của tôi. Nhưng cũng cứ đưa ra, hy vọng sẽ có người nghe, và nếu điều tôi nói là đúng, thì nó cũng chỉ là góp thêm tiếng nói của người dân để cùng tìm ra giải pháp chung mà thôi.

Ôi, ước mơ đẳng cấp quốc tế của giáo dục đại học VN, chắc là còn xa vời, khó khăn lắm. Nhưng cũng cứ phải bắt đầu ở đâu đó. Và nó đang được bắt đầu đây thôi, ở 2 trường trên 2 đầu của đất nước. Hãy chờ xem.

Saturday, September 25, 2010

"Việt Nam - con hổ về giáo dục ở châu Á"?!

Theo lời "giới thiệu" của bạn bè (thực và ảo), tôi vừa đọc bài viết trên VnExpress, có tựa là cái tựa của entry này. Bài viết ấy ở đây.

Đoạn mở đầu nhằm giới thiệu bài viết nguyên văn như sau:
Báo Christian Science Monitor của Mỹ viết về những bước đi mới trong đào tạo đại học ở Việt Nam, nước mà tờ báo này đánh giá có thể trở thành một con hổ mới trong giáo dục và đào tạo ở châu Á.


Đọc những giòng này, tôi cảm thấy hết sức ngạc nhiên. Trước hết là vì trong kinh nghiệm ít ỏi của tôi, tôi không nghĩ rằng các nước đang đánh giá về giáo dục VN như thế. Nói đến con hổ giáo dục đại học châu Á, ngoài những nước đã thành công rõ ràng như Nhật, Hàn, Singapore, hoặc có thể là Đài Loan, hay Mã Lai, có lẽ hiện nay người ta chỉ nghĩ đến Trung Quốc, chứ chưa nghĩ đến VN đâu. Nếu có nghĩ đến VN, chắc là chỉ nghĩ đến tham nhũng trong giáo dục, và chất lượng giáo dục đại học thấp, mà thôi.

Vả lại, bản gốc của bài viết này tôi cũng đã đọc qua rồi và không hề có cảm giác giống như lời giới thiệu kia. Bài ấy viết bằng tiếng Anh, trên tờ Christian Science Monitor, cách đây ít lâu. Tôi chỉ nhớ bài viết nhằm giới thiệu VGU, tức Đại học Việt Đức, một trong 4 trường ĐH được thiết kế để trở thành trường ĐH đẳng cấp quốc tế vào năm 2020 theo "mơ ước" của chính phủ VN, sử dụng vốn vay của các tổ chức tài trợ quốc tế, hình như là của World Bank, và cũng có thể là có cả Asian Development Bank nữa.

Một bài viết không sắc sảo, nhưng có lẽ được đăng vì nó đưa một cái tin ... là lạ, đó là VN cho phép trường ĐH có hiệu trưởng là người nước ngoài được thử một cơ chế quản lý mới tại nước mình.

Và bài báo nếu còn gì hấp dẫn thì có lẽ là do cách đặt vấn đề của tác giả có chút ít mỉa mai, vì "mơ ước" của chính phủ VN xem chừng ... ngây thơ quá! Vì một trường đại học với chỉ hơn 10 năm hoạt động (năm nay đã là 2010, đến 2020 chỉ còn 10 năm, VGU thì mới tuyển sinh được 2 lần thì phải), làm sao lại có thể vào ngay được top 200 trên thế giới như vậy được?

Trong khi ĐH La Trobe nơi tôi học (trường này cũng chỉ là một trường thường thường bậc trung của Úc thôi), với hơn 40 năm tồn tại (La Trobe thành lập năm 1967) và hoạt động trong điều kiện của Úc, tức tốt hơn điều kiện VN rất nhiều, có đầy đủ quyền tự chủ đại học theo "mô hình mới" mà trường VGU đang cố gắng áp dụng, thì hiện nay cũng chưa trong top 200 của QS (kết quả năm 2010 là 286).

Vì vậy, khi đọc bài trên từ VnExpress, tôi buộc phải tìm lại bài tiếng Anh để đọc lại, xem tôi hiểu đúng hay tờ VnExpress hiểu đúng. Bản tiếng Anh ở đây này, các bạn đọc cùng tôi nhé.

Đấy, tôi đã bảo mà. Đúng là họ mỉa mai mình. Chỉ cần đọc cái tựa và mấy giòng đầu tiên thôi, thì thấy ngay.
Asia's next economic tiger? Hint: it's not India or China

Vietnam is building up its universities in an effort to join economic tigers Taiwan and South Korea. Roadblock: hidebound university practices.

Nếu tôi mà dịch đoạn trên, thì tôi sẽ dịch như thế này này:
Đố biết con hổ kinh tế mới ở Châu Á là ai? Nhắc tí: Không phải Ấn Độ hay Trung Quốc đâu

Việt Nam đang xây dựng các trường đại học của mình trong nỗ lực tham gia vào đội ngũ các con hổ kinh tế là Đài Loan và Hàn Quốc. Trở ngại: cách điều hành "hủ lậu" tại các trường đại học.


Các bạn chú ý cách dùng từ nhé: hidebound. Trong tiếng Anh, "hide" là bộ da thú, còn "bound" (quá khứ phân từ của bind) là trói chặt, bó chặt. Hidebound nghĩa đen là bị bọc trong bộ da (chật hẹp). Phần giải thích nghĩa của từ hidebound, lấy ở đây, có thể xem dưới đây:

hide·bound
adj.
1. Stubbornly prejudiced, narrow-minded, or inflexible.
2. Having abnormally dry, stiff skin that adheres closely to the underlying flesh. Used of domestic animals such as cattle.
3. Having the bark so contracted and unyielding as to hinder growth. Used of trees.

The American Heritage® Dictionary of the English Language, Fourth Edition copyright ©2000 by Houghton Mifflin Company. Updated in 2009. Published by Houghton Mifflin Company. All rights reserved.
-----------------------------------------------------
hidebound [ˈhaɪdˌbaʊnd]
adj
1. restricted by petty rules, a conservative attitude, etc.
2. (Life Sciences & Allied Applications / Zoology) (of cattle, etc.) having the skin closely attached to the flesh as a result of poor feeding
3. (Life Sciences & Allied Applications / Botany) (of trees) having a very tight bark that impairs growth
Collins English Dictionary – Complete and Unabridged © HarperCollins Publishers 1991, 1994, 1998, 2000, 2003
-----------------------------------------------------
Đó là phần đầu của bài viết. Phần còn lại thì nói về VGU, trong đó điểm duy nhất đáng quan tâm là nó được trao quyền tự chủ.

Sau đó là phần cuối, nói về điều mà ai cũng biết rồi, đó là giáo dục ĐH của VN nếu muốn phát triển thì nên học tập TQ, tức thu hút những người đi học Tiến sĩ ở nước ngoài về đây làm việc. Nhưng muốn vậy, phải có môi trường mới, trong đó có tự do học thuật (và tất nhiên là phải có rất nhiều tiền, vì nghiên cứu không hề rẻ.)

Bài viết như vậy mà bảo, họ xem mình là con hổ về giáo dục ở Châu Á sao? Tôi nghĩ, báo VnExpress đã hiểu không đúng bài này. Thành ra, viết bài tiếng Việt với cái tựa như thế rất dễ làm độc giả hiểu lầm. Có lẽ cần sửa lại.

Và tôi cũng nghĩ tiếp, có lẽ VN hãy khoan đừng nghĩ tới việc thành rồng thành hổ gì cả. Mà hãy làm đúng, làm tốt những cái đang làm. Ví dụ, có một đề án tiếng Anh trên cả nước kia kìa, hãy cố gắng làm nó cho thật tốt đi đã. Chứ đừng đầu voi đuôi chuột, đánh trống bỏ dùi.

Tóm lại, theo tôi thì thế này: muốn cho giáo dục đại học VN, và cả khoa học VN nữa (cái này là ảnh hưởng của bài viết tôi mới đọc trên trang web của GS NVT viết về sự thống trị của tiếng Anh trên PubMed Central), có ngày mở mặt mở mày với thiên hạ, thì trước hết, hãy học và dạy tiếng Anh cho tốt đã. Hãy là những người Việt Nam nói đúng tiếng Việt, sử dụng tốt tiếng Anh, rồi sau này muốn thành rồng thành cọp gì cũng được. Chuyện ấy, tính sau.

Tôi nghĩ thế, chẳng hiểu có đúng hay không nữa? Không hiểu những người khác thì nghĩ thế nào nhỉ?
-------
Cập nhật ngày 3/10/2010

Tình cờ tìm thấy bài này của tôi được Văn hóa Nghệ An đưa lên trang mạng của mình, phần Diễn đàn, nên đưa link về đây cất. Nó ở đây.

Bài đã viết ra rồi, chỉ mong có nhiều người đọc và chia sẻ. Nên báo VHNA đưa lên để chia sẻ với mọi người tức đã giúp đưa nhận định của tôi đến rộng rãi hơn với mọi người rồi đó. Vậy thì, thanks (anyway), VHNA nhé!

Thursday, September 9, 2010

"Làm thế nào để hủy hoại các trường đại học?"

Lang thang trên mạng, tôi vớ được bài viết này trên blog của một người mà tôi nghĩ là tôi đã gặp. Bài viết không phải của chủ nhân blog mà của một tác giả khác, bằng tiếng Anh, ở đây.

Nói thêm, nếu tôi không lầm thì chủ nhân của blog này là một nhà khoa học có uy tín, một nhà toán học (hình như có quen Ngô Bảo Châu), các bạn vào đấy để tìm hiểu thêm nhé. Còn ở đây, tôi chỉ muốn giới thiệu bài viết, một bài mà theo tôi là rất hay, dí dỏm và giễu cợt, nhưng rất đau xót, và thực ra ẩn chứa trong nó là những lời khuyên rất sáng suốt. Vâng, vì nếu chúng ta đang muốn xây dựng một nền giáo dục đại học có chất lượng, để góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước, mà lại cứ làm như thế này, thì làm sao mà có đại học tốt được? Làm như thế, thì đó là hủy hoại các trường đại học đấy chứ!

VN đang hủy hoại trường đại học của mình sao? Làm sao mà tin được nhỉ? "Giáo dục là quốc sách hàng đầu" cơ mà? À, thì cứ đọc mà xem. Bài viết nhắc đến VN nhiều lần lắm đấy!

Xin ghi lại đây các ý chính:

Để hủy hoại các trường đại học thì có thể làm theo những cách sau:

1. Hủy diệt các nhà khoa học: theo cách của VN, Liên Xô là bỏ đói để chết từ từ. Trả lương họ thấp hơn những người lao động phổ thông (điều đang diễn ra ngay trong năm 2010).

2. Làm tha hóa con người (corrupt the people): cái này có nhiều cách:

2.1 Một lần nữa lại là cách của VN, Liên Xô: bỏ đói. Đói ăn vụng, túng làm liều mà, nên cả thầy lẫn trò đều bị tha hóa, thế là ... xong!

2.2. Đưa ra những chỉ số hiệu suất vớ vẩn (dumb down performance measures): theo tác giả, đó là cách của Anh, nhưng tôi (VTPA) nghĩ đó cũng là cách của VN nữa, thí dụ như cứ có thật nhiều người có bằng cấp là tốt, bất kể đó là bằng gì!!!!!!!

2.3. Áp dụng hệ thống "phi tài năng" (anti-merit system): đây là cách "xã hội chủ nghĩa", ai nấy lãnh lương như nhau dù làm giỏi làm dở gì cũng rứa! Cũng là cách của VN mà?

2.4. Hồng tốt hơn chuyên (red is better than competent): cách "cộng sản chủ nghĩa", trời ơi, sao cái gì cũng "dính" VN hết vậy nè?

2.5. Phương pháp "dân chủ": cho sinh viên chấm điểm giảng viên. Miễn chấm điểm cao là tốt, hic hic. VN cũng đang đi theo hướng này?

Vân vân. Còn nhiều lắm, nhưng thôi, đọc đoạn chót nè, cách này hoàn toàn của VN đó:

3. Lãng phí thời gian và các nguồn lực khác: ví dụ như lãng phí thời gian vào các môn chính trị (triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hic hic hic!!!) Tác giả này bảo hình như phải đến 40% thời gian ở ĐH VN là học mấy cái môn có liên quan đến chính trị tư tưởng vv. Chẳng biết có đến nỗi thế không, nhưng cũng ... không phải là oan hoàn toàn nhỉ?

Mà, không phải là tôi nói đâu nhé, tác giả nước ngoài ông ấy nói đấy! Tôi chỉ giới thiệu thôi!

Có đáng suy nghĩ không quý vị?

Friday, August 27, 2010

Giáo dục VN, một cái nhìn cận cảnh - ý kiến của GS Phong Lê

Một người bạn cùng khóa với tôi, PGS TS Đoàn Lê Giang, Trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ của trường ĐH KHXH-NV mới chuyển cho tôi bài viết của GS Phong Lê về giáo dục VN.

Một bài viết theo dạng nêu ý kiến, mà tôi đồng tình ở nhiều điểm. Bài này dài, nhìn toàn bộ nền giáo dục VN, đã (sẽ?) được đăng trên trang web của Khoa VH-NN của trường XH-NV. Còn trên blog này, tôi xin đăng lại phần ý kiến về giáo dục đại học của VN, phần có liên quan đến công việc của tôi và cũng là phần tôi có hiểu biết nhiều nhất và quan tâm nhất.

----
Tiếp tục cái nhìn cận cảnh cho bậc Đại học và sau Đại học sẽ càng thấy có lắm điều xót xa cho sự học. Mùa tuyển sinh, để đủ được số lượng sinh viên cần chọn, có trường Đại học đã hạ điểm chuẩn đến mức tối thiểu là... vài ba điểm cho ba môn thi; có trường nhận đến vài trăm thí sinh rớt ở các trường khác, qua một đường dây xuyên quốc gia khai tăng hàng chục điểm để có điểm chuẩn; thậm chí không cần hồ sơ mà chỉ cần một tờ... cam kết được Hiệu trưởng nhận là có thể nhập học. (Bây giờ gần như mỗi tỉnh trong cả nước đều có trường Đại học thì việc chiêu sinh, gạn cho đến đáy cũng chưa chắc đã đủ số).

Sau Đại học chính quy là sự mở rộng các hệ Đại học tại chức và từ xa. Dạy từ xa, với hệ thống thầy được mượn ở nhiều nơi; với sự cập kênh giữa giáo trình, người giảng, người ra đề thi, người chấm bài, học viên không biết lo liệu, đối phó bằng cách nào; thế nhưng cuối cùng thì tỷ lệ đỗ đạt vẫn cao, kết quả ấy làm sao có thể khác được!... Cao học (để có bằng Thạc sĩ) là một bậc đáng vị nể khi chưa có Tiến sĩ.

Nhưng quan sát bậc Cao học ở nhiều nơi tôi thấy chất lượng học và luận văn Thạc sĩ rất đáng buồn. Số lớn các chuyên đề đều do các Tiến sĩ ở cơ sở đào tạo giảng; có người giảng vài chuyên đề; sau giảng là hướng dẫn, mỗi Tiến sĩ mỗi khoá học được phép hướng dẫn 3 Thạc sĩ; chỉ vài năm mỗi Tiến sĩ - kể cả người vừa ra lò, có thể cho ra đời hàng chục Thạc sĩ. Bây giờ nếu làm một thống kê – tên đề tài luận văn (riêng khu vực Ngữ Văn) ở tất cả các cơ sở đào tạo trong cả nước, tôi tin là sự trùng lặp có thể lên đến dăm bảy mươi phần trăm!

Rồi đến bậc Tiến sĩ. Theo tôi quan sát, từ khi Bộ có chủ trương cho điểm Xuất sắc thì gần như hầu hết các luận án được bảo vệ đều có điểm Xuất sắc, nếu không phải là 100% thì cũng là 80-90%; trừ khi luận án quá yếu hoặc trong Hội đồng có mâu thuẫn với nhau, thì học trò đành phải chịu thiệt.

Việc gần đây Bộ Giáo dục - đào tạo chủ trương “tạm dừng tuyển sinh Tiến sĩ 101 chuyên ngành, kể từ 2010” cho nhiều trường Đại học lớn của Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, do “chưa đáp ứng yêu cầu về đội ngũ cán bộ khoa học, cần có thời gian để củng cố và bổ sung đội ngũ" đủ cho thấy sự so lệch giữa cái ta muốn, một cách duy ý chí với khả năng thực tế là khủng khiếp đến thế nào!

Cả chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư theo cái đà mong muốn ấy, cũng được “ăn theo” trên các tiêu chuẩn tôi cho là quá thấp. 6 điểm công trình, tức là 6 bài báo cho Phó Giáo sư ở khu vực Đại học và 10 điểm công trình ở các Viện nghiên cứu, tính cả quy đổi - thế mà cũng ít người đạt được. Không ít ứng viên phải nhặt nhạnh, vơ bèo vạt tép khắp nơi mới đủ được số lượng. Còn về chất lượng thì quả là một báo động bởi, qua dăm bảy bài góp nhặt lại thì sao mà hình dung nổi tư chất chuyên gia ở một người đã lọt vào hàng ngũ Giáo sư?

Một đánh giá của PGS.TS. Đoàn Lê Giang - Trưởng Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học KHXH và NV TP. Hồ Chí Minh, trong một Hội thảo khoa học gần đây rất đáng cho ta giật mình: “Tôi xin lỗi tất cả để nói rằng: đào tạo KHXH & NV của chúng ta hiện nay là kém nhất trong lịch sử: thua giáo dục thời phong kiến, thời thực dân Pháp, thua miền Bắc và miền Nam trước 1975. Chúng ta không có nổi một trường Quốc tử giám danh giá bậc nhất Đông Nam Á, một trường Viễn Đông bác cổ mà người Nhật phải khâm phục như ông cha chúng ta đã tạo ra. Chúng ta không đào tạo nổi những Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, hay Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Bửu Cầm... về học vấn cũng như tư cách mà những nền giáo dục quá khứ đã tạo ra”.

Về phần tôi, với bài này, tôi muốn góp một tiếng nói đồng tình triệt để với nhận xét đó.

Bên chất lượng, điều quan trọng hơn, còn là mục tiêu. Nếu hiểu học để có tri thức, và tri thức đó phải được đưa vào đời sống, phải có ích cho đời sống; để khi rời học đường mỗi người đều có một nghề, vừa là để nuôi thân, vừa là có đóng góp cho cộng đồng lớn nhỏ, thì đó là câu chuyện hoang đường cho lớp lớp các thế hệ cử nhân ở ta lâu nay. Những điều tra xã hội học gần đây cho thấy tỷ lệ số sinh viên các ngành khoa học xã hội ra trường được sử dụng chỉ khoảng dăm phần trăm. Vậy thì số còn lại khoảng trên 90% vẫn cứ là thất nghiệp, hoặc đành phải chuyển nghề sau 5 năm đào tạo!

Dễ hiểu, “đầu ra” là thế thì “đầu vào” càng là một con số cũng chẳng vui gì. Một thông tin cho thấy: “Ngày 17-4-2010 cơ quan đại diện Bộ Giáo dục - đào tạo phía Nam hoàn tất việc nhận hồ sơ với khoảng 20.000 bộ hồ sơ đăng ký dự thi. Trong đó khoảng 60% - vào nhóm kinh tế. Khoảng 30% - kỹ thuật. Trong khi khối xã hội - nhân văn chỉ 5%”.

Bên cạnh cái học mà không hành được - nó gần như là hiện tượng phổ biến ở nước ta, khiến cho bậc Đại học được xem là Phổ thông cấp Bốn, và Cao học là Phổ thông cấp Năm, lại có cái học chỉ nhằm vào những mục tiêu khác. Chẳng hạn chỉ là để có danh, khi trong xã hội đang náo nức những cuộc đua theo các chức danh. Bởi đã có danh tất có phận. Và có phận rồi lại muốn thêm danh cho nó sang. Ai đó đang rất cần có một cái bằng cho sự đề bạt hoặc giữ vững một chức vụ, một cấp bậc nào đó mà thiếu tri thức, thiếu kiên nhẫn, hoặc thiếu thời gian theo đuổi thì bằng mọi cách, cái bằng đó phải được tạo ra, bằng xin xỏ, nhờ cậy hoặc... mua, dựa vào các mối quan hệ qua lại, hoặc vào một đường dây thi hộ, làm bài hộ, mua hộ.

Câu chuyện vị Phó bí thư Tỉnh ủy Yên Bái nhận bằng Tiến sĩ chỉ sau 6 tháng “tu nghiệp” tại gia, và trước đó ông Giám đốc Sở văn hóa- thể thao- du lịch Phú Thọ được cấp bằng “Tiến sĩ Hoa Kỳ” mà không có một hột chữ tiếng Anh nào trong bụng không biết đã đủ cho một sự cười ra nước mắt cái tệ chạy theo hư danh bằng lừa dối. Thói tệ chạy theo bằng cấp, danh vị còn lọt đến những chỗ còn thâm nghiêm hơn. Tôi rất kính trọng những bậc lãnh đạo có tri thức, có học vấn; hoặc những người đã kinh qua nghề trí thức trước khi tham gia vào đời sống công quyền. Nhưng khi xuất thân không phải ở môi trường học vấn mà lại cố chạy thêm cho được cái hàm, vị khoa học kèm theo thì lại rất vô duyên.

Không biết đến bao giờ người ta mới biết xấu hổ vì những gì không là thực chất mà chỉ là hình thức; hơn thế, đây chỉ là một thứ hình thức phô trương theo kiểu vàng mã, trang kim.

----
Phần đăng ở trên là phần II của bài viết. Tựa đầy đủ của bài viết là MỘT CÁI NHÌN CẬN CẢNH VỀ HIỆN TRẠNG GIÁO DỤC BẬC PHỔ THÔNG VÀ ĐẠI HỌC CÙNG SAU ĐẠI HỌC) Ở XỨ TA…. Tác giả là GS Phong Lê. Ai quan tâm, có lẽ search tựa và tên tác giả thì sẽ tìm thấy toàn bài để đọc.

Mong nhận được ý kiến trao đổi của các bạn.

Tuesday, July 20, 2010

"Nhiều lỗi trong đề thi đại học môn tiếng Anh"

Đó là cái tựa bài viết vừa đăng trên báo Thanh Niên online sáng nay ngày 20/7/2010. Ở đây.

Bài viết này chủ yếu dựa trên những bài đã đăng của GS Nguyễn Văn Tuấn trên blog cá nhân của ông, nhận định đề thi tiếng Anh trong kỳ thi tuyển sinh đại học vừa qua. Trong bài cũng có sử dụng một số ý kiến của tôi, trong box ở cuối bài. Nói chung, đó là những ý chính của tôi về đề thi, và về những nhận định của GS Tuấn.

Còn dưới đây là nguyên văn phần tôi đã gửi. Xin đăng lại ở đây và mong nhận những trao đổi từ các bạn.

---
Về đề thi tuyển sinh tiếng Anh năm 2010

Đề thi tuyển sinh đại học môn tiếng Anh năm 2010 vẫn giữ nguyên cấu trúc và nội dung kiểm tra tổng quát như đề thi các năm trước đây. Nhìn chung, tôi đánh giá đề thi năm nay là tương đương về độ khó so với đề thi các năm trước, và không quá khó đối với trình độ chung thí sinh thi vào khối D.

Tôi có đọc lại các nhận định đã đăng trên báo của các thí sinh, giáo viên trung học, và một vài giảng viên đại học về thi môn tiếng Anh năm nay, thì thấy đa số ý kiến cũng trùng với nhận định của tôi, tức đề thi vừa sức. Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng có một số câu hơi lắt léo nên khó chọn được đáp án chính xác, và vì thế đề thi có thể sẽ có tính phân hóa cao.

Tôi cho rằng các nhận định về sự lắt léo của đề thi có liên quan đến phần Reading Comprehension (đọc hiểu). Trong đề thi năm nay, phần kiểm tra đọc hiểu bao gồm 2 bài đọc về 2 chủ đề khác nhau với 20 câu hỏi trên tổng số 80 câu của bài thi. Khi đọc kỹ vào 2 đoạn trích của phần kiểm tra đọc hiểu, quả thật tôi thấy có một số vấn đề cần bàn thêm. Chính các bài đọc hiểu này là nguyên nhân của các bài nhận định (có tính phê phán) về đề thi tuyển sinh tiếng Anh năm nay của GS Nguyễn Văn Tuấn (Việt kiều Úc).

Tôi nghĩ, mặc dù lời lẽ trong những bài nhận định của GS Tuấn hơi nặng nề, có lẽ hơi khó nghe với một số người, nhưng các ý kiến của ông nhìn chung là chính xác và có căn cứ. Những điểm đáng phê phán trong đề thi (chỉ liên quan đến 2 bài đọc hiểu) mà GS Tuấn đã nêu ra gồm có:

1. Về việc đề thi có “đạo văn”: Những điều mà GS Tuấn nêu ra trong các bài viết của ông là chính xác. Ông đã bỏ công ra tìm và chỉ ra nguồn gốc các bài văn được sử dụng trong đề thi, và thậm chí các câu hỏi kèm theo. Tôi nghĩ, đây thực sự là một vấn đề lớn trong việc ra đề thi tiếng Anh ở VN, tương tự như vụ đạo giáo trình trước đây.

Chúng ta có thể giải thích lý do tại sao điều này lại xảy ra được ở Việt Nam, thậm chí có thể thông cảm vì việc này bắt nguồn từ hoàn cảnh Việt Nam trước đây chưa hội nhập sâu rộng với thế giới, trình độ tiếng Anh của giáo viên nói chung còn hạn chế vv. Nhưng những lý do và sự thông cảm đó không làm cho một việc sai trở thành đúng. Giờ đây, khi đất nước đã hội nhập sâu rộng, và khả năng “bị phát hiện” bởi cộng đồng khoa học thế giới cũng rất cao, chúng ta nên thừa nhận cái sai để sửa và rút kinh nghiệm.

2. Về chất lượng của đề thi: Ngay cả nếu chúng ta vẫn tiếp tục xem việc sử dụng những tài liệu “miễn phí” trên mạng không phải là đạo văn (thật ra, điều này là đi ngược với đạo đức học thuật của cộng đồng khoa học thế giới), thì nội dung và ngôn ngữ của hai bài đọc nói trên vẫn có nhiều điểm đáng bàn. Những vấn đề này đã được GS Tuấn nêu kỹ trong các bài viết của ông, và nhìn chung là chính xác.

Tôi đã đọc kỹ cả hai bài đọc và xin nêu ở đây một số nhận định của tôi:

a. Về ngôn ngữ: Tiếng Anh chưa chuẩn, khó có thể xem là “mẫu mực” để đưa vào các tài liệu chính thức và quan trọng như trong kỳ thi tuyển sinh quốc gia. Cả hai bài viết đều có những lỗi sai về cách dùng mạo từ (sử dụng “the” một cách khá tùy tiện), phong cách không hoàn toàn phù hợp với một đề thi vì khá “thông tục” (bài đọc về adult learning), và đặc biệt có nhiều lỗi về “quy chiếu” (reference) và “kết nối” (link) mà GS Tuấn gọi là lỗi logic khiến cho bài đọc thiếu mạch lạc.

Ví dụ: từ “instead” trong câu 2, đoạn 1 của bài đọc về adult learning là chỉ cái gì, instead of what? Hoặc từ “better” trong câu 3, đoạn 3 của cùng bài: better than what? Hoặc trong bài đọc về cartoons, câu 3 đoạn 1 bắt đầu bằng “Even though”, nhưng ý của 2 vế trong câu này không hề trái ngược và vì thế không thể dùng “even though” để nối. Cũng vậy với từ “Unlike” trong câu đầu của đoạn 3 trong cùng bài đọc về cartoons: đã dùng “unlike” để chỉ những điều trái ngược, nhưng trong câu lại dùng “also” để chỉ những điều giống nhau?

b. Về nội dung: Cả hai bài đều không hoàn toàn phù hợp với đối tượng thí sinh của kỳ thi. Bài thứ nhất nói về adult learning, không phù hợp với thí sinh chính quy, tuyệt đại đa số chỉ mới 18 tuổi, vừa học xong THPT. Bài thứ hai càng nhạy cảm hơn vì có hàm ý phê phán phương Tây và ca ngợi văn hóa phương đông, đặc biệt là Trung Quốc. Một đoạn văn như vậy có thể xuất hiện trong đề thi của Trung Quốc nhưng không nên xuất hiện trong đề thi của một kỳ thi quốc gia của Việt Nam.

Mặc dù có những sơ sót như vậy, nhưng tôi nghĩ đề thi cũng sẽ không ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của thí sinh hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kỳ thi. Điều đáng quan tâm ở đây là nó bộc lộ những lỗ hổng trong quản lý giáo dục của Việt Nam ở mức độ hệ thống.

Chúng ta nên cùng nghiêm túc nhìn nhận những sơ sót này, chứ không nên phản ứng. Tôi tin rằng Bộ Giáo dục sẽ trân trọng lắng nghe những góp ý của mọi người để có những cải cách quan trọng đối với nền giáo dục nước nhà.

Wednesday, July 14, 2010

Hai bài mới viết cho Tia Sáng về tuyển sinh đại học ở Trung Quốc

Nhân mùa tuyển sinh đại học tại VN, Tia Sáng có đề nghị tôi viết bài về vấn đề này.

Nói mãi về tuyển sinh của VN thì cũng chán, vì những vấn đề cần nói mọi người đã nói hết rồi. Nên tôi nhìn sang nước láng giềng của VN là Trung Quốc để xem chúng ta có thể học hỏi được gì từ đất nước này không.

Và thấy, rõ ràng là có nhiều việc để học! Kỳ thi tuyển sinh đại học của TQ hiện nay đang được mệnh danh là kỳ thi lớn nhất hành tinh, đã được tổ chức chuyên nghiệp lắm lắm. Có hơn 50 năm tồn tại rồi. Tốt hơn chúng ta nhiều rồi. Và kèm theo nó là một ngành công nghệ luyện thi và tổ chức thi, làm đề thi, vv, đem lại khá nhiều "công ăn việc làm" và lợi ích cho những người tạo ra ngành công nghệ đó.

Còn lợi ích cho nền giáo dục TQ, và cho toàn xã hội thì sao? Giới trí thức, và truyền thông TQ nghĩ gì? Xin mọi người đọc 2 bài sau đây mà tôi mới viết, đã đăng trên mạng của tờ Tia Sáng hôm nay.

Đây này. Tuyển sinh đại học: VN có học được gì từ TQ?đây nữa. Cải cách tuyển sinh ở TQ - nhưng chỉ một chút thôi.

Mọi người đọc, và trao đổi nhé! Bắt chước TS Nguyễn Xuân Diện, tôi mở blog cũng chỉ mong lấy comment làm lãi mà thôi!

Tuesday, July 13, 2010

20 ngàn tiến sĩ và sự nhầm lẫn

Entry này tôi sẽ viết ngắn. Vì tôi đang chuẩn bị cho một buổi họp sẽ diễn ra trong vòng 15 phút nữa. Nhưng không thể không viết lên cảm nhận của tôi khi đọc bài viết mới này trên Tuần VN. Ở đây.

Về cơ bản, tôi đồng ý với tác giả, và có lẽ nhiều người khác nữa. Nhưng tôi có một ý nghĩ hơi khác về con số 20 ngàn (hay 23 ngàn, theo tác giả bài viết nói trên) tiến sĩ này. Mọi người nói rằng Bộ, hoặc nhà nước VN, đang mơ mộng. Còn tôi, tôi nghĩ, có lẽ Bộ bị nhầm lẫn.

Có thêm hai mươi ngàn tiến sĩ (thực chất) có thể là cái chúng ta cần để có được chất lượng, khi giáo dục học đại học VN đang phát triển ồ ạt về số lượng như hiện nay. Đó đúng là một nhu cầu, nhưng không thể là chỉ tiêu áp đặt và phải thực hiện cho bằng được trong vòng bao nhiêu năm đó, bất chấp điều kiện thực tế.

Dù có quyết tâm chính trị cao đến mấy, cũng vậy! Vì từ nhu cầu đến việc đáp ứng nhu cầu đó thì còn phải có một kế hoạch kỹ lưỡng, cân nhắc mọi yếu tố có liên quan, mà đặc biệt là liên quan đến con người nữa.

Giáo dục con người là chuyện của trăm năm. Một trăm năm, các bối cảnh bên ngoài có thể thay đổi, các thể chế chính trị cũng đến và đi, chỉ cái gì vĩnh cửu của loài người mới tồn tại. Không giống như một cuộc chiến tranh, đánh nhanh rút gọn là xong. Càng nhanh càng tốt, để cướp thời cơ.

Tôi nghĩ trong giáo dục không có những thời cơ kiểu như thế. Mà là những giá trị bền vững cần vun đắp lâu dài. Ai hiểu đúng như thế thì sẽ thắng, còn ai làm giáo dục theo kiểu chiến tranh, giành thời cơ, sử dụng ý chí chính trị vv như ta đang làm, có lẽ sẽ không bao giờ đến đâu cả, thật vậy.

Điều này, có lẽ lịch sử đã chứng minh. Và bài học lịch sử ấy đang lập lại, tại TQ. Sau hơn vài chục làm giáo dục theo kiểu đánh nhanh thắng nhanh, đất nước ấy đang phải nhìn lại và thay đổi cách làm giáo dục của mình.

Có lẽ chúng ta đang nhầm lẫn giữa làm giáo dục với làm chính trị chăng? Thật thế!

Friday, July 9, 2010

Đọc "Cả một nền giáo dục không may" của Hà Văn Thịnh

Tôi vừa đọc bài trên, ở trên Tuần Việt Nam hôm nay. Ở đây.

Hà Văn Thịnh là một cây bút quen thuộc. Anh (chẳng hiểu sao tôi nghĩ anh cũng lớn tuổi rồi, ít ra là bằng tôi? Mặc dù tôi chưa bao giờ gặp mặt!) khá nổi tiếng về những phát biểu gây shock về giáo dục, chắc chắn là shocking hơn những phát biểu của tôi nhiều. Như trong bài nói trên.

Tôi rất chia sẻ với những điều anh HVT nêu trong bài. Rất đáng đọc, và rất đáng suy nghĩ. Nhưng tôi nghĩ, có lẽ không nên dừng ở chỗ chỉ ra những cái chưa được, rồi thở dài, rồi đau khổ. Vì nó chẳng đi đến đâu phải không anh Thịnh, và các bạn?

Chúng ta có nên bình tĩnh phân tích cặn kẽ những nguyên nhân, và đưa ra những giải pháp cho nền giáo dục của chúng ta hay không? Suy cho cùng, nền giáo dục ấy sẽ ảnh hưởng - xấu hoặc tốt - đến từng người trong chúng ta. Con cái chúng ta sẽ hưởng nền giáo dục đó, nhân viên và đồng nghiệp của chúng ta - và cả chúng ta nữa - chịu tác động của nền giáo dục đó. Nếu nó sai, thì môi trường văn hóa xã hội bị ô nhiễm, giống như xả rác vào nơi công cộng.

Nên nếu chúng ta sống trong xã hội ấy, môi trường ấy, và không có cách chi thoát ra được (mỗi người đều phải có một quê hương, một chốn để đi về, không phải ai cũng có thể 'tị nạn giáo dục') thì chúng ta cùng phải chung tay thắp nến, dọn đường, quét rác vv mà thôi.

Phải không anh Thịnh và mọi người nhỉ?

Nói thì dễ, làm mới khó. Nhưng cũng phải quyết tâm làm, rồi sẽ dần dà làm được thôi! Còn nền giáo dục của ta, thì như trong bài của anh HVT, nó đã bộc lộ ra nhiều chỗ sai, và đã rõ lắm rồi!

Sunday, July 4, 2010

"Gánh nặng trên vai tân Bộ trưởng Bộ GD-ĐT"

Tình cờ mở Yahoo, tôi đọc được mẩu tin có cái tựa đã được sử dụng làm tựa entry này (có để trong ngoặc kép tức là trích dẫn của người khác, không phải tựa của tôi!)

Bài ấy có thể đọc ở đây, hoặc, theo chú dẫn về nguồn, thì có thể đọc được nó ở trên trang Tuổi Trẻ Online cho số báo ra Thứ Hai ngày 5/7/2010, với tác giả được ghi là Mai Lan của tờ Doanh nhân cuối tuần.

Nói thêm, Mai Lan là một trong những PV giáo dục mà tôi hay đọc và cho là có những bình luận sắc sảo. Trước đây Mai Lan ở báo SGGP, nhưng như thế tức là nay đã đổi sang làm ở tờ báo khác rồi, cũng tiếc cho SGGP. Chẳng biết có phải tại vấn đề lương bổng và đãi ngộ hay không? Nếu một tờ báo như SGGP, cơ quan của Đảng bộ TP, mà không giữ được người giỏi, thì cũng đáng suy nghĩ đấy!

Quay trở lại bài báo. Đúng với những nhận định của tôi về Mai Lan, bài viết có những ý kiến rất sắc sảo, ví dụ như trong những trích dẫn dưới đây:

Trước thực trạng quản lý giáo dục ngày càng bộc lộ những yếu kém, Thủ tướng Chính phủ đã phải ra chỉ thị về “Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012”. Lý giải về việc chọn đổi mới quản lý giáo dục đại học là khâu đột phá, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho rằng nguyên nhân cốt lõi nhất của tất cả các yếu kém mang tính hệ thống ở bậc đại học thời gian qua là do thực hiện các giải pháp khoa học quản lý chưa sát.

Tiếc thay, Bộ GD-ĐT lại triển khai cuộc “cách mạng” quản lý bằng tư duy “phong trào” chứ không bằng tư duy “khoa học”: hàng loạt cuộc hội thảo, hội nghị của các trường ĐH-CĐ trên cả nước được mở ra với nhiều chương trình hành động và khẩu hiệu “nổ rền”, nhưng lại chẳng liên quan gì đến việc đổi mới quản lý cả! Hàng loạt cuộc ký kết giữa Bộ GD-ĐT với Trung ương Đoàn TNCS HCM, giữa các ban giám hiệu, đảng ủy nhà trường với Đoàn TNCS HCM của các trường về chương trình hành động của sinh viên (!) đối với cuộc “đổi mới quản lý giáo dục”.

Đổi mới diễn ra “lạc đề, lạc chủ thể”? Trong khi đó, nội dung được các trường và xã hội mong chờ nhất là: việc đổi mới công tác quản lý của Bộ đối với hệ thống các trường đại học ra sao? Giao quyền tự chủ đến đâu? Đổi mới cơ chế tài chính như thế nào? Mức độ phân công, phân cấp quản lý cho các trường? v.v... Tất cả chìm khuất!

[...][N]ền giáo dục Việt Nam đã đa dạng hóa loại hình đầu tư, hàng loạt ĐH-CĐ dân lập, tư thục đã ra đời trong suốt mười năm đổi mới. Tuy nhiên, cũng ngần ấy thời gian vấn đề lợi nhuận của khu vực này đã rất không rõ ràng: là trường “lợi nhuận” hay “phi lợi nhuận”? Bởi trên thế giới, ứng xử của Nhà nước giữa hai loại hình trường này rất khác nhau.

Một khi tài chính thiếu minh bạch sẽ ngáng trở rất lớn trong việc đánh giá hiệu quả, thiết lập kế hoạch đầu tư chính xác cũng như đóng góp của xã hội cho giáo dục.

Tình hình như thế, mà tất cả trí thức trong và ngoài nước không ai có đóng góp gì sao cho quá trình đổi mới quản lý của ngành giáo dục VN? Có chứ, nhưng theo tác giả Mai Lan, tiếc thay, tất cả như rơi vào “hố thẳm của im lặng”!

Vậy đấy, nên bảo sao mà gánh của tân Bộ trưởng lại chẳng nặng!

Một nhận xét ngoài lề: tôi khá bất ngờ khi bài báo có nêu tên tôi với một phát biểu, nghe ý tưởng và lời lẽ thì đúng là của tôi, nhưng rõ ràng là tôi chưa bao giờ phát biểu điều này với báo chí bao giờ. Nó ở trên blog của tôi chăng? Tôi đã đi tìm, và quả nhiên là tìm thấy. Ở đây này, bài bình luận bài viết có tên "Giáo dục đụng đâu ... dở đó".

Cũng xin "khoe" thêm: về đổi mới quản lý giáo dục, tôi cũng đã viết trên blog của mình mấy bài, trong đó bài tôi viết kỹ và tâm đắc nhất là bài có tên "Bộ Giáo dục đạt mục tiêu đổi mới bằng cách nào?". Có thể đọc nó ở đây. Đã gửi cho Tia Sáng (viết cho Tia Sáng) nhưng sau đó bị "mất bản quyền" vì bị đưa trước lên trang mạng khác, nên Tia Sáng không dùng nữa! Hơi tiếc!

Vậy mới thấy, blogs cũng có tác dụng của nó: đây đúng là một public sphere, một không gian công cộng, một loại diễn đàn của các cá nhân có ý tưởng và muốn đóng góp ý kiến của mình cho xã hội, cho chính quyền để góp phần cải thiện cuộc sống.

Và như vậy, thì ta vẫn còn có thể tin tưởng rằng rồi thì mọi việc sẽ phải tốt lên, khi những tiếng nói độc lập, trung thực của những người - tạm gọi là trí thức, mặc dù trí thức là gì thì còn phải bàn thêm - có trách nhiệm với xã hội vẫn còn có nhiều người nghe! Chỉ mong những người cần nghe sẽ lắng nghe, và sẽ hành động!

Đây cũng là mong muốn của tôi, một người trong ngành, xin gửi gắm đến tân Bộ trưởng! Như trước đây tôi cũng đã từng có những ý kiến nho nhỏ trên diễn đàn của Bộ Giáo dục (do TS Quách Tuấn Ngọc làm admin) khi PTT NTT mới làm Bộ trưởng.

(Tự dưng bỗng thắc mắc: Chẳng rõ hồi ấy nguyên Bộ trưởng NTN có bao giờ đọc các ý kiến của tôi không nhỉ?)

Thursday, June 17, 2010

Số liệu về giáo dục VN, dành cho những người đang học thống kê

Riêng gửi các bạn học viên trong lớp Cao học Đo lường Đánh giá Khóa 2
---
Tôi vừa tìm thấy bài này trên trang của vietnamnet, ở đây. Với cái tựa thật ấn tượng: Những con số giáo dục dưới thời Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân.

Một bài viết với nhiều số liệu, và rất rất nhiều ấn tượng, phải nói là "không thể nào quên", thật vậy!

Vấn đề đặt ra với những người đang tập tành đọc số liệu thống kê giáo dục (giống như các bạn học viên của tôi) là: có thể rút ra những kết luận giống như trong bài viết từ những số liệu này không?

Câu hỏi tôi mới đặt ra là một câu hỏi "Yes-No Question", cho nên trên nguyên tắc chỉ có thể có 2 câu trả lời: có hoặc không.

Chọn câu trả lời nào, có lẽ tùy thuộc vào trình độ và quan điểm của các bạn. Câu hỏi này theo tôi là một câu rất hay đấy; nó sẽ giúp tôi hiểu được các bạn nhiều hơn rất nhiều.

Chúng ta sẽ thảo luận "đáp án" của câu hỏi này trong lớp vào tuần sau nhé!

Còn các bạn hay đọc blog của tôi, nếu các bạn trả lời hoặc trao đổi gì ở đây, thì tôi rất biết ơn. Vì đọc bài đó với những số liệu và kết luận đã đưa, tôi không thể không quan tâm, thật vậy!
---
Cập nhật sáng ngày 18/6/2010:

Đã đọc entry này, thì các bạn cũng nên bỏ chút thời gian đọc thêm mấy bài này nữa:
1. Trên báo Thanh Niên hôm nay, tại đây.
2. Và trên blog cá nhân của tôi, viết tối qua, tại đây.
Có ai có comment gì không? Hay là ai cũng ..."no comments", nhỉ?

Wednesday, June 9, 2010

Chất lượng đại học thấp, phải chăng chỉ vì mở trường dễ dãi?

Entry này là bản gốc của một bài tôi đã viết cho báo Pháp Luật TP nhân dịp Quốc hội họp và bàn về những vấn đề của giáo dục đại học. Bài viết đã được đăng báo sáng nay, tại đây dưới tựa đề "Nên kiểm định độc lập các trường đại học". Bài đã được rút gọn khá nhiều, trong đó có một số chi tiết mà tôi nghĩ là có thể được xem xét thêm nếu có điều kiện. Vì vậy, xin gửi lên đây để chia sẻ với các bạn để mong nhận được các ý kiến trao đổi.
---
Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam chưa cao, điều này có lẽ cho đến nay không còn ai thắc mắc. Nhưng nguyên nhân là do đâu, thì dường như mỗi người lại có một ý kiến khác nhau. Khá nhiều người cho rằng nguyên nhân chủ yếu của việc chất lượng giảm sút là do lâu nay ta đã cấp phép mở trường quá dễ dãi, thiếu những quy định chặt chẽ. Một số người khác thì cho rằng nguyên nhân chính là do việc xét duyệt hồ sơ mở trường của Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ yếu là xem xét trên hồ sơ chứ không kiểm tra thực tế. Đó là lý do tại sao lại có tình trạng hồ sơ một đàng, thực tế một nẻo ở trường Đại học Phan Thiết mà báo chí đã nêu lâu nay.

Nếu những lập luận nêu trên là chính xác thì để cải thiện tình trạng hiện nay, chỉ cần xem xét quy định mở trường hiện hành đã đủ chặt chẽ chưa, đồng thời đưa thêm yêu cầu bắt buộc là phải kiểm tra thực tế trước khi cấp phép. Bài viết này đưa ra một số nhận xét về quy định hiện hành cùng một vài đề xuất cải thiện chất lượng đại học Việt Nam hiện nay, nhằm đóng góp cho Quốc hội nhân kỳ họp thứ 7 của Quốc hội Khóa 12 đang diễn ra hiện nay.

Luận điểm chính của tôi là các quy định hiện hành về thành lập trường đại học rất chặt về thủ tục và hồ sơ ban đầu, nhưng lại rất lỏng về trách nhiệm và sự giám sát trong quá trình hoạt động. Những nhận định của tôi chủ yếu dựa trên việc xem xét quy định thành lập trường đại học theo Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15/1/2009.

Tóm tắt Quyết định 07
Quyết định 07 của Thủ tướng bao gồm 11 điều, trong đó có 3 điều quy định chung (Điều 1: Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, Điều 10 và 11: Thời hạn hiệu lực và trách nhiệm thi hành) và 8 quy định cụ thể như sau:
• Điều kiện thành lập (điều 2);
• Quy trình, thủ tục thành lập (điều 3);
• Thu hồi chủ trương thành lập và giải thể trường (điều 4);
• Cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh (điều 5);
• Sáp nhập, chia, tách trường đại học (điều 6);
• Đình chỉ hoạt động của trường đại học (điều 7);
• Giải thể trường đại học (điều 8); và
• Trách nhiệm của các cơ quan (điều 9).

Khi đọc nội dung cụ thể của từng điều trong quy định thì điều đầu tiên đập vào mắt tôi là văn bản trên quá nặng về hướng dẫn thủ tục, vì chỉ riêng điều 3 nói về quy trình và thủ tục đã chiếm đến 4 trang trong tổng số hơn 9 trang của văn bản. Ngoài ra, có thể nói các quy định hiện nay vừa chặt vừa lỏng, và có một vài điểm thiếu hợp lý. Xin phân tích dưới đây:

Thủ tục và hồ sơ cấp phép khá chặt chẽ nhưng cần kiểm tra thực tế
1. Các điều kiện thành lập được quy định trong Điều 2 gồm 6 điểm: phù hợp với quy hoạch mạng lưới trường đại học đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; có Dự án thành lập trường (nêu cụ thể trong điều 3); được Ủy ban nhân dân Tỉnh hoặc Thành phố thuộc trung ương chấp thuận; có đủ số lượng giảng viên và nhà quản lý; có đất để xây dựng trường (tối thiểu 5 hectare) và cơ sở vật chất, thiết bị đáp ứng yêu cầu hoạt động; có vốn hoạt động (tối thiểu 50 tỷ, không kể giá trị đất đai).

Trong 6 điều kiện này, có 2 quy định cứng về các điều kiện tối thiểu và có thể kiểm tra ngay trước khi cấp giấy phép thành lập trường: điều kiện về đất và vốn hoạt động. Những điều kiện còn lại là các thủ tục hành chính, phục vụ cho việc quản lý của nhà nước.

Như vậy, để đảm bảo chất lượng của các trường đại học sau khi được cấp giấy phép thành lập thì không những thủ tục cấp giấy phép phải chặt chẽ và được thực hiện nghiêm túc (Điều 3), mà những quy định về trách nhiệm của các bên có liên quan và các biện pháp chế tài về những vi phạm xảy ra sau khi cấp giấy phép (Điều 4 và Điều 7) cũng cần được nêu rõ ràng và chặt chẽ một cách tương xứng. Làm như thế, mới có thể giúp ngăn ngừa sự ra đời và tồn tại của những trường đại học kém chất lượng. Tuy nhiên, quy định hiện nay chưa làm được điều này.

2. Quy trình và thủ tục thành lập trường (Điều 3) rất chặt chẽ chi li, gồm 2 bước: bước 1 phê duyệt chủ trương đầu tư và bước 2 ra quyết thành lập trường, mỗi bước đều phải có sự phê duyệt cuối cùng của Thủ tướng. Quá trình thực hiện khá chặt chẽ với nhiều hồ sơ có sự phê duyệt của cấp có thẩm quyền, từ Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố thuộc trung ương nơi ngôi trường tọa lạc, Bộ Giáo dục và Đào tạo (vai trò chính yếu), các Bộ, ngành có liên quan.

Khi chủ trương thành lập trường đã được phê duyệt nếu sau 3 năm trường không triển khai được dự án thì chủ trương sẽ bị thu hồi. Cũng vậy, khi quyết định thành lập trường được ký mà sau 2 năm vẫn không chuẩn bị được đủ điều kiện để hoạt động thì trường sẽ bị giải thể (Điều 4).

Như vậy, có thể tạm yên tâm là ở khâu đầu tiên này đã có sự kiểm soát rất chặt chẽ. Sự lỏng lẻo, sơ hở nếu có chỉ có thể ở khâu thường xuyên giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trường, và thực hiện những biện pháp chế tài khi cần thiết, chứ không phải ở khâu cấp phép, nếu mọi bước trong khâu này đều được thực hiện tốt và làm thật.

Sự giám sát và chế tài chưa được quy định rõ ràng, hợp lý
3. Sự giám sát chất lượng đối với một trường được bắt đầu ngay sau khi trường được thành lập và là trách nhiệm của Bộ Giáo dục. Trong văn bản được nêu ở đây, sau khi có giấy phép thành lập, để có thể mở ngành đào tạo và tuyển sinh phải được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo với những điều kiện rất cụ thể về số lượng giảng viên, diện tích phòng học, giáo trình, trang thiết bị vv (Điều 5).

Một câu hỏi đặt ra ở đây văn bản này không nêu rõ loại trường nào cần được kiểm tra: chỉ những trường mới thành lập sau Quyết định này (năm 2009), hay tất cả mọi trường đã thành lập, hay chỉ là trường tư, hoặc chỉ là trường công?

Nếu là tất cả các trường (điều nên làm, trong điều kiện chất lượng đào tạo đang bị xã hội kêu ca như hiện nay) thì không hiểu làm sao Bộ có thể kiểm tra xuể khi số trường đại học và cao đẳng của Việt Nam hiện đã hơn 400 trường. Nếu mỗi năm kiểm tra 20% số trường (tức 5 năm kiểm tra lại một lần) thì cần kiểm tra trên 6 trường/tháng, nếu mỗi đoàn kiểm tra làm việc 4 ngày (1 ngày đọc hồ sơ trước khi đến trường, 1 đi lại, 2 ngày kiểm tra thực địa, họp hành, hội ý) thì quanh năm suốt tháng chỉ đi kiểm tra thôi mà không làm việc gì khác cũng không có đủ thời gian.

Còn nếu chỉ kiểm tra những trường mới thành lập sau năm 2009, thì điều này có nghĩa là những trường kém chất lượng nhưng đã “lỡ” thành lập thì vẫn được tiếp tục hoạt động?

4. Sự chế tài của nhà nước đối với những vi phạm của trường đại học được quy định ở Điều 7 (đình chỉ hoạt động) và Điều 8 (giải thể). Tuy nhiên, hai điều này được quy định khá sơ sài và có những chỗ bất hợp lý:

a. Việc trình Thủ tướng đình chỉ hoạt động của trường là trách nhiệm của Bộ Giáo dục. Tuy nhiên, như đã nêu ở mục 3, Bộ sẽ không thể nào có đủ thời gian để kiểm tra thực tế.

b. Nếu không bám sát thực tế, không ra quyết định đình chỉ hoạt động, thì không thể giải thể các trường vì lý do vi phạm mà không khắc phục được hậu quả (Điều 8, Khoản 1, Mục b)

c. Một số điểm khác trong quy định về giải thể chưa rõ ràng hoặc chưa hợp lý:
i. “Mục tiêu và nội dung hoạt động của trường đại học không còn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”; (Điều 8, Khoản 1, Mục c). Rất mơ hồ: Phù hợp với yêu cầu phát triển là gì, và không rõ ai có thẩm quyền và năng lực xác định sự phù hợp này?
ii. “Do yêu cầu sắp xếp lại mạng lưới cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế” (Điều 8, Khoản 1, Mục c). Vừa mơ hồ, tương tự như trên, vừa không hợp lý, thậm chí bất công đối với trường tư, vì theo quy định trường đã phải thành lập theo đúng quy hoạch của mạng lưới. Nếu thực tế thay đổi thì trước hết điều này phản ánh tầm nhìn hạn hẹp của những người chứ không phải lỗi của trường, sao lại buộc trường giải thể?

Từ những phân tích nêu trên, tôi cho rằng điều quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam không phải là có thêm quy định, mà là đổi mới tư duy quản lý giáo dục của Bộ Giáo dục, chuyển từ quan điểm chỉ chú trọng quản lý chặt đầu vào và nhấn mạnh thủ tục, hồ sơ, sang quan điểm thường xuyên kiểm tra thực tế, giám sát và đánh giá khách quan, điều chỉnh kịp thời, và chế tài nghiêm khắc khi cần thiết.

Tất nhiên, nếu vẫn hoạt động như hiện nay thì Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ không thể nào làm xuể, và mọi việc vẫn như cũ. Giải pháp cho điều này thật ra đã có, thậm chí cũng đã được đưa vào Luật Giáo dục và được Quốc hội thảo luận nhiều lần, đó là tăng cường công tác kiểm định và thành lập các tổ chức kiểm định độc lập để thực hiện việc thường xuyên rà soát, đánh giá và công nhận theo các chuẩn chất lượng. Vấn đề hiện nay là làm thế nào để thực sự đẩy mạnh công tác kiểm định, đó chính là điều mà công chúng đang mong đợi các đại biểu Quốc hội bàn bạc và tìm ra giải pháp trong kỳ họp Quốc hội này.

Monday, June 7, 2010

Hai bài đáng đọc trên báo Nhân Dân về chất lượng đại học

Cái tựa entry này thế nào cũng làm cho một số người chú ý cho xem. Vì hình như báo Nhân Dân ít ai đọc lắm thì phải, trừ những người làm công tác Đảng, có lẽ vậy.

Nhưng lần này thì quả thật có 2 bài về giáo dục ĐH đáng đọc. Nó là bài phỏng vấn GS Đào Trọng Thi, nguyên GĐ ĐHQG Hà Nội. Hiện ông còn đang giữ chức vụ to tát khác, khi các bạn đọc bài phỏng vấn thì sẽ rõ.

Do đang vội đi làm, nên chỉ đưa link 2 bài viết trên báo Nhân Dân thôi. Khi có chút thời gian, tôi sẽ quay lại viết tiếp nhận định của tôi về 2 bài viết mà tôi giới thiệu ở đây. Bạn đọc nào có ý kiến gì về vấn đề đặt ra trong báo thì comment giúp nhé!

---
Loạt bài Giáo dục đại học: Bức tranh đáng báo động.

Bài thứ nhất:
Loạn cấp phép thành lập trường ĐH.
Ở đây, link: http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=36&sub=48&Article=176266.

Bài thứ hai:
Chất lượng GD ĐH không đạt chuẩn ... VN. Ở đây, link: http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=0&article=176320.

Chỉ có một comment nhanh: Dường như vẫn chưa có giải pháp gì có vẻ khả thi lộ ra từ 2 bài viết này. Vẫn chỉ là hiện trạng, and it's bad. Làm sao làm cho nó tốt hơn, hình như chưa thấy rõ.

Tôi chợt nhớ đến một bài tôi đã viết và đưa trên blog này cách đây ít lâu: "Bộ Giáo dục đạt mục tiêu đổi mới bằng cách nào?" Bài ấy tôi viết cho Tia Sáng, nhưng vì đăng lên blog nên bị ai đó lấy đưa lên trang boxitvn mà không thèm hỏi tôi một tiếng, cũng chẳng để tên tôi là tác giả. Nhưng vì đăng trên đó trước, nên Tia Sáng không đăng nữa!

Theo tôi, câu trả lời tổng quát đã nằm trong bài viết đó. Tôi viết nó sau khi đọc và trăn trở rất nhiều về những mô hình đại học thành công cũng như thất bại trên thế giới. Nhưng dường như không mấy ai quan tâm?

ở đây, nếu bạn nào muốn đọc lại (vì tò mò). Link: http://ncgdvn.blogspot.com/2010/03/bo-giao-duc-at-muc-tieu-oi-moi-bang.html.

Enjoy!

Wednesday, May 26, 2010

Đại học đỉnh cao liệu có phát triển được ở Trung Quốc?

Câu hỏi này không phải của tôi, mà là của tác giả của bài viết cùng tên (không phải bằng tiếng Việt, tất nhiên; có lẽ bài gốc thoạt tiên được viết bằng tiếng Trung, nhưng tôi chỉ đọc được bản tiếng Anh). Bài viết ấy được đăng trên tờ Toàn cầu thời báo (Global Times) của Trung Quốc vào ngày 14/10/2009, ở đây.

Một bài viết ngắn, chỉ nhằm mục đích đặt câu hỏi chứ không cố gắng đưa ra câu trả lời nào - hẳn là học tập Đỗ Ngọc Bích với câu nói nổi tiếng (!!!), đại khái (tôi không nhớ nguyên văn) là chỉ có câu trả lời ngu xuẩn chứ không có câu hỏi nào ngu xuẩn!

Tuy nhiên, rất nhiều khi "hỏi tức là đã tự trả lời". Và theo tôi thì tác giả của bài viết này, chỉ qua một bài viết ngắn với một số quan sát chọn lọc và những nhận định cá nhân, đã đưa ra những phác họa rõ nét cho thấy tại sao giáo dục đại học Trung Quốc dường như đã "chạm nóc", nếu không có những thay đổi lớn về quản lý trong thời gian tới.

Bài báo viết gì? Về việc các trường ĐH hàng đầu của TQ, trong đó có các trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa, đã ký một thỏa ước đồng ý cùng nhau tìm cách xây dựng nhóm Ivy League - tạm dịch là nhóm ĐH đỉnh cao - của TQ, theo kiểu nhóm trường ĐH đỉnh cao của Mỹ (tìm hiểu thêm về Ivy League ở đây).

Theo thỏa ước này, nhóm Ivy League của TQ sẽ công nhận tín chỉ của nhau và cho phép sinh viên được lựa chọn địa điểm học trên bất kỳ cơ sở nào của các trường trong nhóm, nhằm tạo điều kiện chia sẻ nguồn lực giữa các trường.

Tốt quá, phải không? Nhưng tác giả của bài báo lại không nghĩ như vậy. Tại sao ư? Thiếu gì lý do, đây này:

1. Hệ thống đào tạo theo tín chỉ của TQ chưa hoàn chỉnh, và số môn học bắt buộc lên đến 80% tổng số môn, trong khi sinh viên các nước Anglo-Saxon chỉ phải học số môn bắt buộc là 40% tổng chương trình.

Với một hệ thống tín chỉ "nửa mùa" như vậy, tác giả đặt câu hỏi (rất chí lý) rằng "tự do chọn môn học ở ngay cơ sở đào tạo của mình còn chẳng được thì lấy đâu mà lựa chọn tự do giữa các trường?"

2. Các trường đại học của TQ, kể cả Ivy League, vẫn còn bị bó buộc quá thiếu khâu và thiếu tính tự chủ, ngay từ khâu đầu tiên là khâu tuyển sinh. Theo tác giả, nếu muốn có sự phân tầng thì các trường Ivy League trước hết phải có hệ thống tuyển sinh của riêng mình, nhằm lựa chọn được các tân sinh viên phù hợp với các yêu cầu riêng do mình đặt ra. Điều này, theo tác giả, có thể sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới tuyển sinh đại học tại TQ: các trường sẽ được trao quyền chủ động nhiều hơn về mặt chuyên môn.

3. Các trường Ivy League của TQ quá giống nhau về nguồn lực và kinh phí, nên sự chia sẻ, trao đổi giữa các trường sẽ không có tác dụng gì nhiều. Theo tác giả, sự chia sẻ và trao đổi này nên diễn ra giữa các trường Ivy League của TQ với các trường khác, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, đồng thời nâng cao chất lượng của giáo dục đại học TQ lên nói chung.

Một nhận định rất thú vị, và cũng là kết luận của tác giả:
It is a good idea to encourage communication and exchange between universities. But it will end in vain if not aimed at the benefit of the students.

This is why a lot of agreements have been signed in the recent years, but not many changes have happened in higher education.

Trao đổi ý tưởng và kinh nghiệm giữa các trường ĐH là rất tốt. Nhưng nếu việc này không nhắm đến lợi ích của người học thì cũng bằng thừa.

Đó là lý do tại sao các thỏa ước giữa các trường được ký rất nhiều, nhưng rồi cũng chẳng thấy thay đổi được mấy tí.

Vậy đấy. Đọc lên, sao cứ thấy giống giống giáo dục đại học VN? Vì cách đây mấy ngày, khi đang ở Sing, tôi cũng đọc được tin về một hội thảo gần đây về đào tạo theo tín chỉ. Ví dụ như ở đây. Và thấy, hình như ở VN đào tạo theo tín chỉ nói đi nói lại mãi mà vẫn chỉ có vậy. Thành tựu nửa mùa.

Nguyên nhân chính, suy cho cùng, phải chăng là nền giáo dục của chúng ta (cũng như của TQ) chưa lấy người học làm trung tâm. Cũng như quản lý nhà nước dường như chưa lấy người dân làm gốc vậy.

Nếu thế, chẳng trách nào giáo dục của ta cứ đổi mới đủ thứ, hết đổi mới chương trình rồi đến giáo trình rồi lại đến cách tổ chức đào tạo và giờ đây là đổi mới quản lý, mà cuối cùng cũng chẳng thấy đổi thay được mấy tí (giống y như nhận định về giáo dục TQ trong bài viết trên).

Và câu hỏi cho giáo dục đại học TQ có lẽ cũng là câu hỏi dành cho ta, nhưng có điều chỉnh một chút: một nền giáo dục đại học tử tế liệu có phát triển nổi trên đất Việt?

Có ai dám trả lời câu hỏi này không?