Showing posts with label uni admission. Show all posts
Showing posts with label uni admission. Show all posts

Monday, September 12, 2011

Tuyển sinh ĐH-CĐ 2011: "Hàng loạt ngành học phải đóng cửa", vì sao?

Cụm từ "Hàng loạt ngành học phải đóng cửa" trong tựa của entry này là tựa một bài báo của PV Minh Giảng trên mục giáo dục của báo Tuổi Trẻ hôm nay. Một bài viết mà theo tôi là hay và đáng đọc. Có thể tìm thấy nó ở đây.

Việc đóng cửa ngành học vì không có thí sinh không phải chỉ năm nay mới có; các năm trước vẫn thỉnh thoảng xảy ra tuy không đến nỗi trở thành một vấn đề gây bức xúc dư luận. Tuy nhiên, dường như chưa bao giờ tình hình lại "thê thảm" như năm nay khi việc đóng cửa ngành học xảy ra hàng loạt, và thậm chí tồn tại cả nguy cơ đóng cửa một số trường đại học và "phá sản" hệ thống đại học ngoài công lập, như một số bài báo gần đây đã cho thấy.

Nguyên nhân do đâu? Đã nhiều ý kiến đã được đưa ra, kể cả những ý kiến đã nêu trong bài báo trên Tuổi Trẻ hôm nay. Tôi cũng có những lý giải của riêng mình, như đã được trích trong bài báo của PV Minh Giảng mà tôi đưa link ở trên. Xin chép lại nguyên văn đoạn phát biểu của tôi mà PV Minh Giảng đã ghi lại dưới đây:

Theo TS Vũ Thị Phương Anh - phó giám đốc Trung tâm bồi dưỡng và hỗ trợ chất lượng giáo dục thuộc Hiệp hội các trường ĐH-CĐ ngoài công lập: “Năm nào cũng có trường ĐH-CĐ mới thành lập, chỉ tiêu tuyển sinh các trường tăng đều mỗi năm. Chỗ học tăng lên trong khi lượng thí sinh tăng không đáng kể, bộ lại giữ nguyên điểm sàn trong nhiều năm nay nên dĩ nhiên nhiều trường sẽ không thể tuyển đủ chỉ tiêu. Nhiều người lo ngại điểm sàn thấp chất lượng đào tạo sẽ như thế nào? Tuy nhiên điểm sàn mới chỉ là chất lượng đầu vào, còn cả quá trình bồi dưỡng, đào tạo ở các trường nữa. Lẽ ra nên kiểm soát đầu ra thì bộ lại khoán trắng cho các trường và nắm chặt đầu vào”.

Cũng xin được nói thêm một chút để làm rõ hơn ý của tôi trong phát biểu nói trên:

Để đáp ứng yêu cầu nhân lực cho đất nước, lâu nay nhà nước ta đã đưa ra chủ trương mở rộng giáo dục đại học. Tuy nhiên, trường ĐH-CĐ đã được mở ra ngày càng nhiều, nhưng dường như chất lượng nhân lực chưa tăng lên, do chất lượng sinh viên ra trường vẫn còn thấp. Điều này đúng. Nhưng có vẻ như theo Bộ Giáo dục và Đào tạo thì giải pháp duy nhất để đáp ứng yêu cầu về chất lượng là xiết chặt đầu vào.

Đó là lý do mà Bộ đã đưa ra cho sự ra đời và tồn tại của tuyển sinh chung. Chẳng ai thắc mắc xem tại sao đã tuyển sinh 3 chung cả chục năm nay rồi, ngày càng phức tạp hơn, mà chất lượng có thấy tăng thêm gì đâu? Trong khi đó, có khá nhiều học sinh không đậu được vào đại học của VN, bèn tham gia những chương trình liên kết với nước ngoài, hoặc đi học ở nước ngoài, cũng vẫn học được, thậm chí còn học tốt, và ra trường thì khá hơn hẳn sinh viên trong nước. Vì vậy, rõ ràng thắt chặt đầu vào không phải là giải pháp, mà giải pháp phải là kiểm soát đầu ra.

Nhưng kiểm soát đầu ra bằng cách nào, vì làm sao Bộ có thể ... tổ chức thi tốt nghiệp cho sinh viên các trường được? Không, tất nhiên là Bộ không thể làm như thế. Đây là lý do phải có kiểm định chất lượng, không chỉ là kiểm định CL trường ĐH như Bộ đang làm hiện nay, mà còn là kiểm định nghề nghiệp, vd như ABET cho khối ngành kỹ thuật hoặc AACSB cho khối ngành doanh thương. Hoặc cũng có thể tạo ra chuẩn cho VN, rồi dần dần hòa nhập vào chuẩn thế giới. Nhưng không thấy Bộ có ý định đẩy mạnh việc này gì cả.

Cũng phải thôi, vì Bộ đang bận quá mà: Bận xét hồ sơ mở trường, mở ngành, rồi duyệt chỉ tiêu tuyển sinh, rồi ra đề thi chung, lập hội đồng xác định điểm sàn, rồi thanh tra xem có trường nào vi phạm quy chế tuyển sinh không, vd như nguyện vọng 2, nguyện vọng 3 gì đấy, rồi lại xét duyệt quy chế 33 để xem thí sinh nào 8 điểm đáng được vào ĐH vv.

Cứ cái đà này rồi trong tương lai gần công việc của Bộ còn nặng gấp đôi cho mà xem, vì sau khi tuyển sinh xong xuôi lại bắt đầu phải xét xem ... trường nào được phép đóng cửa ngành nào, và trường nào được quyền tuyên bố phá sản, phá sản hoàn toàn hay phá sản một phần, và trong tương lai có được mở lại nữa hay không (!), vv.

Ôi, mệt quá, chuyện tuyển sinh đại học của VN!

Sunday, August 28, 2011

"Quản đầu vào hay quản đầu ra?"

Quản đầu vào hay quản đầu ra?
----
Bình thường tôi ít chép từ blog của người khác về blog của mình; nếu có cũng chỉ trích dẫn và có lời bình.

Nhưng hôm nay thì phá lệ. Vì bài này tác giả đúng là đã nói thay dùm tôi.

Số là ít lâu nay thấy báo chí lề phải “đánh” các trường ngoài công lập (NCL) dữ quá, đặc biệt là “diếc móc” vụ các trường ấy thiếu sinh viên nên tìm cách “mua chuộc” thí sinh vào trường mình bằng cách “thưởng” – thực chất là cho học bổng để thí sinh vào trường mình.

Tôi thấy lập luận trong những bài viết ấy rất thành kiến, và có nhiều chỗ sai, nghe rất … không lọt tai, nên muốn viết một bài để ghi lại ý kiến của mình. Nhưng chưa có thời gian, vì đang bận quá, thì do thay đổi công tác mà lại.

Mà không viết cũng còn vì tôi mới chuyển từ khu vực công sang khu vực ngoài công lập, e rằng người ta bảo rằng mình … tự bào chữa, nên định chờ cho mọi việc lặng đi, rồi mới nói. Hoàn toàn là vấn đề lý luận, chứ không có mục đích bênh, bỏ công lập hay ngoài công lập gì cả.

Nay có bài này, đỡ quá, không cần viết nữa. Các bạn đọc nhé. Bài này lấy từ blog của Bút Lông. Link nằm ở cuối bài đấy.

Enjoy, and share your views, will you?
--------------

Bất chấp ý kiến của lãnh đạo Bộ GD&ĐT, một số trường vẫn tiếp tục công bố các “chiêu tiếp thị” nhằm thu hút học viên như giảm học phí, tặng quần áo, thậm chí tặng cả… điểm!

Nhiều người cho rằng sự việc không chỉ là vấn đề kỷ cương phép nước hay là biểu hiện của thương mại hóa giáo dục mà đó còn là hệ lụy sẽ phải đến của một phương pháp quản lý giáo dục “chẳng giống ai”!

Cụ thể, đó là hậu quả rõ nét nhất của việc cho ra đời hàng loạt trường ĐH, CĐ nhưng quá yếu kém về năng lực dẫn tới phải “bán mình” để thu hút người học. Hoặc đó là hệ quả của một nền giáo dục phổ thông thiếu định hướng dẫn tới nhiều thí sinh nhầm tưởng chỉ có một con đường duy nhất vào đời là ĐH. Người ác khẩu còn bảo chính từ sự non kém trong quản lý giáo dục khiến các nhà đầu tư mở trường không hề quan tâm đến sự nghiệp chung là trồng người mà chỉ nhăm nhăm mong… gỡ vốn và thu lời!

Thực ra, nếu quan sát các cách thức quản lý giáo dục của nước ngoài, việc chào mời học viên đến với trường đâu phải là chuyện lạ. Cứ thử nhìn vào các trang quảng cáo báo chí hoặc các băng rôn treo ngoài cột điện sẽ thấy, các chiêu thu hút học viên thông qua các “hội thảo du học” nước ngoài thực chất cũng là cách thức tiếp thị, tìm kiếm khách hàng mua một thứ dịch vụ mang tên: giáo dục chuyên nghiệp.

Vậy thì có đáng kêu ca ầm ĩ khi các trường cạnh tranh nhau thu hút học viên (tức đầu vào)?!

Trong khi đó, điều đáng báo động nhất là chất lượng cử nhân (đầu ra) thì ở ta gần như “khoán trắng” cho các trường. Ai cũng hiểu, cứ đỗ ĐH thì kiểu gì sau bốn năm, hầu hết sinh viên sẽ ra trường, sẽ cầm trong tay tấm bằng kỹ sư, cử nhân để “hãnh diện với đời”. Điều phi lý này tồn tại hàng chục năm nay cho dù các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, với tư cách là người sử dụng lao động, luôn luôn phải bỏ chi phí ra để đào tạo lại hoặc đầu tư rất kỹ cho khâu tuyển dụng nhằm có được nhân lực có chất lượng.

Nhiều chuyên gia gọi kiểu quản lý đào tạo đó của ta là theo “mô hình ống”. Trong khi các nước dù để tự do tuyển dụng đầu vào (chấp nhận đủ các cách tiếp thị, kể cả thí sinh nước ngoài) thì họ lại quản rất chặt đầu ra mà nôm na gọi là “mô hình nón”. Người học có thể đăng ký ghi tên bất cứ trường nào, song không phải cứ đủ bốn năm là nghiễm nhiên cầm bằng tốt nghiệp mà có thể là sáu, tám và thậm chí 10 năm nếu quá trình học không nhận đủ số tín chỉ cần thiết. Theo cách đó, chất lượng nhân lực là thật, dù có khi chỉ sau hai năm một người giỏi đã lấy bằng tốt nghiệp!

Cho nên chất lượng đầu ra mới là việc đáng “kêu”!


Source: http://butlong.multiply.com/journal/item/909/909

Wednesday, August 10, 2011

"Phương án thi đổi mới toàn diện"

Là bài báo đăng trên Tuổi Trẻ hôm nay, có thể đọc ở đây.

Một phần trong bài báo ấy là phần phỏng vấn tôi. Trao đổi thì dài, nhưng PV đã viết lại rất ngắn gọn, rõ ràng. Tôi đăng lại ở đây để lưu lại những ý tưởng mà tôi đã có trong đầu vào thời điểm này. Cần làm như vậy, vì sau này còn cần xem lại những ý tưởng của chính mình. Các bạn xem dưới đây nhé.
--------------
http://tuoitre.vn/Giao-duc/450496/Phuong-an-thi-doi-moi-toan-dien.html

TS Vũ Thị Phương Anh (nguyên giám đốc Trung tâm Khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo ĐHQG TP.HCM):

Chỉ cần một kỳ thi

Việc tổ chức hai kỳ thi cấp quốc gia chỉ cách nhau một thời gian ngắn như hiện nay gây tốn kém, áp lực cho toàn xã hội mà lại không đạt hiệu quả như mong muốn. Nhưng nếu tổ chức thi ĐH với nhiều môn cũng không ổn. Theo tôi, chỉ cần tổ chức một kỳ thi cấp quốc gia nhưng phải làm cho tử tế. Kỳ thi này có thể hiểu như một kỳ thi tốt nghiệp THPT, bao gồm năm môn sau: toán, ngôn ngữ (kỹ năng lập luận, viết lách...), ngoại ngữ, khoa học tự nhiên (một bài thi có thể bao gồm các kiến thức về lý, hóa, sinh), khoa học xã hội (một bài thi có thể bao gồm các kiến thức về sử, địa, chính trị...).

Sau kỳ thi này, Bộ GD-ĐT sẽ xác định điểm sàn, những thí sinh đạt từ điểm sàn trở lên coi như đủ năng lực học ĐH. Những thí sinh dưới điểm sàn có thể theo con đường phân luồng vào học trường nghề. Tùy đặc thù của từng trường ĐH, các trường sẽ sử dụng điểm của kỳ thi quốc gia này để xét tuyển hoặc tự tổ chức thi tuyển với những môn do chính các trường tự đặt ra sao cho phù hợp với nhu cầu đào tạo.

Chứ như hiện nay, tôi có cảm giác các trường ĐH chưa tuyển được SV đáp ứng đúng với nhu cầu đào tạo của mình. Ví dụ như ngành tiếng Anh: thí sinh thi khối D với bài thi môn tiếng Anh trên giấy thì trường ĐH không thể tuyển đúng đối tượng. Một số em khi đã thi đậu vào ngành này chúng tôi mới phát hiện em bị ngọng. Nếu được phép, chỉ cần trường ĐH tổ chức thi thêm một môn nghe - nói là ổn.

Thursday, August 4, 2011

Cải cách tuyển sinh tại TQ: Kinh nghiệm cho VN

Bài viết này của tôi vừa đăng trên Bản tin ĐH Hoa Sen số mới nhất. Có thể đọc bài ấy trên mạng, ở đây. Xin đăng lại dưới đây để chia sẻ cùng các bạn, và để lưu cho chính mình.
---------------

Cải cách tuyển sinh ở Trung Quốc: Kinh nghiệm cho Việt Nam
Vũ Thị Phương Anh

Lại một kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng nữa lại qua đi, kỳ thi quan trọng nhất trong cuộc đời học sinh ở Việt Nam Một kỳ thi được tổ chức với rất nhiều công sức với những chi phí tính được và không tính được của toàn xã hội mà giờ đây, không cần đợi kết quả thì ai cũng biết rằng sẽ chỉ có một số nhỏ khoảng trên dưới 25% là có được chỗ học thêm 4 năm. Số còn lại sẽ ngậm ngùi chấp nhận thất bại, và đường đời từ đây sẽ rẽ vào ngã khác.

Thi cử nặng nề: Không chỉ có ở Việt Nam!
Một kỳ thi nặng nề, tốn kém như vậy rõ ràng cần phải được cải cách, dư luận xã hội của Việt Nam đã đưa ra đòi hỏi này từ nhiều năm nay. Nhưng cải cách như thế nào đây để không rơi vào tình trạng “lợn lành thành lợn què”? Thay vì phải thử nghiệm trên chính mình, việc tìm hiểu kinh nghiệm của những quốc gia có điều kiện tương tự như Việt Nam chắc chắn sẽ mang những điều hữu ích. Và – dù muốn dù không – thì một trong những quốc gia mà Việt Nam có thể học hỏi cho việc cải cách tuyển sinh chính là Trung Quốc.

So với kỳ thi tuyển sinh của Việt Nam thì kỳ thi đầu vào đại học của Trung Quốc, mà tầm quan trọng được thể hiện ngay trong tên gọi là kỳ thi “Cao khảo” (gaokao), có lẽ còn nặng nề hơn gấp bội. Cũng giống như Việt Nam, cho đến nay kỳ thi Cao khảo ở Trung Quốc vẫn là cơ hội duy nhất để các sĩ tử tìm kiếm một vận may cho tương lai. Tuy nhiên, khác với Việt Nam, thương hiệu của các trường đại học có ảnh hưởng rất lớn đến triển vọng nghề nghiệp của sinh viên sau khi ra trường. Việc cạnh tranh để có được một chỗ học trong các trường thuộc hàng ưu tú ở Trung Quốc vì vậy gay gắt hơn ở Việt Nam rất nhiều lần.

Dựa vào kết quả của kỳ thi Cao khảo, các thí sinh có thể sẽ được nhận vào học tại một trường đại học ưu tú, ở đó các em sẽ có một công việc có thu nhập ổn định chờ sẵn sau khi ra trường. Hoặc các em sẽ có chỗ học ở một trường bậc trung mà cơ hội nghề nghiệp sau khi ra trường vẫn chỉ là một ẩn số. Hoặc nếu thất bại hoàn toàn, thì các em sẽ phải suốt đời chấp nhận cuộc sống khó nhọc, vất vả của người lao động phổ thông. Nói cách khác, cả cuộc đời của các em được định đoạt chỉ trong kỳ thi hai ngày đầy căng thẳng va phụ thuộc nhiều vào may rủi.

Bất bình âm ỉ, cải cách từ từ
Sự không hài lòng đối với kỳ thi cao khảo tại Trung Quốc đã âm ỉ từ lâu. Theo tác giả Jiang Xueqin trong bài viết trên tờ Diplomat ngày 3/6/2011 , chỉ vài ngày trước ngày băts đầu kỳ thi Cao khảo năm nay, tất cả mọi người Trung Quốc đều đồng ý rằng kỳ thi đã hoàn toàn tước đi tính tò mò tự nhiên, sự sáng tạo, và cả tuổi thơ của các học sinh Trung Quốc. Vì thế, cần thiết phải cải cách kỳ thi này bằng mọi giá – đó là điều không có gì để bàn cãi nữa.

Cần thiết thì cần thiết, nhưng cải cách một cuộc thi đã có thâm niên đến mấy chục năm ở một quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo với một nền giáo dục ứng thí quả là điều không dễ. Vì vậy, mặc dù kế hoạch cải cách kỳ thi Cao khảo của Trung Quốc đã được nói đến trong nhiều năm nay, nhưng việc triển khai cải cách vẫn chỉ mới diễn ra trong phạm vi thử nghiệm. Nhiều biện pháp được đem ra thử nghiệm, đa số đều rút ra từ cách làm của các nước phương Tây. Các trường thí điểm cải cách được phép tuyển thẳng những học sinh có các thành tích đặc biệt, hoặc tổ chức thêm những buổi phỏng vấn để tuyển chọn những thí sinh phù hợp, hoặc liên kết thành một nhóm trường và tự tổ chức kỳ thi riêng khác vói kỳ thi quốc gia (gọi là kỳ thi Liên khảo, tức đề thi chung của một nhóm trường) . Mặc dù rất khác biệt, nhưng các biện pháp này đều có chung một mục đích: cố gắng đánh giá những khía cạnh khác của tài năng vốn khó đánh giá được trong các kỳ thi truyền thống, đặc biệt là tính sáng tạo của người học.

Không chùn bước trước những ý kiến trái chiều
Những giải pháp vừa nêu không phải là đều đã nhận được sự đồng tình của toàn xã hội. Cũng dễ hiểu, vì mỗi giải pháp đã nêu đều có những khiếm khuyết riêng, và điều này đã được công chúng nêu ra trên các diễn đàn công khai, kèm những lời phản đối đôi khi có thể được xem là gay gắt . Liệu việc trao quyền cho các trường tổ chức phỏng vấn để tuyển sinh liệu có dẫn đến việc lạm quyền của các hiệu trưởng, chỉ nhận những người thân vào học – một dạng tham nhũng trong giáo dục – hay chăng? Liệu việc cho phép từng nhóm trường tạo ra một cách thi riêng có công bằng đối với mọi thí sinh không, khi các trường đại học tốt ở các đô thị lớn sẽ phù hợp hơn với thí sinh sinh sống ở các đô thị đó, và loại trừ các thí sinh ở các địa phương khác – một sự bất bình đẳng trong giáo dục?

Nhưng bất chấp những ý kiến trái chiều này, Bộ Giáo dục Trung Quốc đã tỏ rõ sự kiên quyết thực hiện cải cách, dù chậm chạp và thận trọng. Trong bài viết có tựa đề “Taking the right step forward” (tạm dịch: “vững bước tiến lên”) đăng trên trang mạng của tờ Trung Hoa nhật báo ngày 25/3/2011 , tác giả Xiao Xiangyi khẳng định Trung Quốc đã thực hiện những bước đầu tiên của việc cải cách kỳ thi Cao khảo thông qua việc khuyến khích các trường đại học tự đưa ra những tiêu chuẩn tuyển sinh sao cho có thể kiểm tra được tính sáng tạo, óc tưởng tượng và kỹ năng học tập của sinh viên. Việc cải cách này là cần thiết để góp phần giải quyết tình trạng thiếu hụt tài năng kinh niên của đất nước này.

“Khi các trường lần lượt được cho phép sử dụng kỳ thi riêng của mình, thì kỳ thi Cao khảo sẽ không còn là yếu tố duy nhất để định đoạt việc sinh viên sẽ được nhận học ở trường nào như hiện nay nữa,” bài báo trích lời của giáo sư Qin Shaode thuộc Đại học Phúc Đán.

Cải cách tuyển sinh đã khởi động ở Trung Quốc, còn Việt Nam?
“Lần lượt được cho phép”, cụm từ này cho thấy cuộc cải cách kỳ thi Cao khảo sẽ diễn ra khá chậm chạp, có lẽ là để tránh những xáo trộn không cần thiết của một kỳ thi với số lượng thí sinh lên đến cả chục triệu người, cũng có nghĩa là ảnh hưởng đến cả chục triệu gia đình, tức vài ba chục triệu con người. Vì vậy, khi nhìn từ bên ngoài, cuộc cải cách kỳ thi tuyển sinh của Trung Quốc hiện nay dường như vẫn chưa có gì thay đổi.

Nhưng thực ra, cuộc cải cách tuyển sinh của Trung Quốc đã thực sự bắt đầu, một sự bắt đầu hợp quy luật và chắc chắn sẽ là xu thế không thể đảo ngược. Vì nó là một bước tiếp theo tất yếu của những cải cách đối với nền giáo dục đại học của Trung Quốc theo hướng hội nhập với thế giới. Như có thể thấy qua những gì đã diễn ra trong mùa thi năm nay, khi một số trường đã dám cho phép sinh viên của mình “nói không” với kỳ thi Cao khảo.

Bất chấp một thói quen lâu đời và sự trì trệ, ít thích thay đổi, chỉ muốn duy trì nguyên trạng của nền văn hóa Khổng giáo, Trung Quốc đã làm được như vậy trên một đất nước với trên 1 tỷ dân. Lẽ nào Việt Nam lại không làm được như vậy, nếu có quyết tâm?

Monday, July 11, 2011

"Cải cách tuyển sinh, đi lòng vòng!"

Đó là tựa bài viết của tôi đăng trên báo Pháp luật TP HCM ngày hôm nay, 11/7/2011, ở đây.

Bài viết đã được biên tập lại chút ít, và tựa bài đã được đặt lại. Cũng như mọi lần, việc biên tập của tờ báo quả là có làm cho bài viết hay hơn một chút - rõ ràng hơn, gãy gọn hơn. Trừ cái tựa thì tôi không thích lắm, vì nghe ... nặng quá. Nhưng tựa cũ của tôi thì dài dòng, có lẽ cũng không hay.

Thôi thì cứ đăng bài gốc lên đây, vì dù sao nó cũng là sản phẩm của mình. Bài đã biên tập xin xem trên báo, theo đường link đã đưa ở trên.
-------------
Hướng đến một kỳ thi quốc gia, lật lại đề án cải cách tuyển sinh
Vũ Thị Phương Anh

Tổ chức kỳ thi tuyển sinh đại học “ba chung” như hiện nay, trong khi đã có một kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông cũng được tổ chức ở cấp quốc gia, liệu có cần không? Đó là một câu hỏi đã được dư luận trong nước đặt ra từ nhiều năm nay.

Câu trả lời chính thức của Bộ rất rõ ràng: cho đến năm 2011 này, kỳ thi tuyển sinh đại học vẫn chưa thể bỏ được. Cần nhắc lại rằng chính Bộ Giáo dục và Đào tạo là người đã đề ra kế hoạch bỏ kỳ thi tuyển sinh đại học vào năm 2010. Lý do khiến kế hoạch này chưa thể thực hiện, trích lời Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển trong một phát biểu được đăng trên trang VNExpress năm 2009 , là: Bỏ thi tuyển sinh đại học là một chủ trương lớn, cần có thời gian để đạt sự đồng thuận cao của xã hội; ngoài ra, bản thân Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần thời gian để chuẩn bị cho sự thay đổi nói trên.

Điều đáng nói là cách làm hiện nay của Bộ cũng không đạt được sự đồng thuận cao của xã hội. Mặc dù vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về kỳ thi tuyển sinh, nhưng hầu như mọi người đều đồng ý là việc tổ chức hai kỳ thi quốc gia liền nhau như hiện nay vừa trùng lắp không cần thiết, vừa quá tốn kém. Trong hai kỳ thi ấy, tốt nhất chỉ nên giữ lại một.

Đó cũng là mục đích của việc cải cách thi cử mà ngành giáo dục đã đặt ra cách đây vài năm. Lật lại đề án cải cách thi cử với mục tiêu chỉ còn một kỳ thi quốc gia vào năm 2010 (nay đã quá hạn), ta thấy những yếu tố hoàn toàn phù hợp với các nền giáo dục tiên tiến đã từng được đề xuất:

1. Chỉ giữ lại một kỳ thi quốc gia; kỳ thi đó sẽ là kỳ thi tốt nghiệp THPT. Thí sinh sẽ dự thi 8 môn trong chương trình học, và đa số các môn thi sẽ áp dụng hình thức trắc nghiệm. Vì đây là kỳ thi tốt nghiệp, nên yêu cầu của kỳ thi cần vừa sức, nghĩa là thí sinh chỉ cần đạt mức trung bình thì đã có thể đậu, mặc dù để đạt điểm cao vẫn sẽ không dễ dàng.
2. Kết quả thi tốt nghiệp THPT sẽ là một yếu tố quan trọng để xét tuyển vào đại học, nhưng không bắt buộc phải là yếu tố duy nhất. Không loại trừ việc các trường đại học tổ chức thêm một kỳ thi riêng nếu thấy cần thiết.

Nếu thực hiện đúng như trên, kỳ thi tốt nghiệp THPT sẽ có vai trò tương tự với kỳ thi Tú tài trước năm 1975 (kết quả thi Tú tài thời ấy được phân thành 5 hạng Tối ưu, Ưu, Bình, Bình thứ, Thứ). Kết quả của kỳ thi này được sử dụng để xét tuyển vào đại học đối với những trường thuộc loại “ghi danh” (ví dụ như Đại học Văn khoa, Đại học Khoa học), hoặc là điều kiện để dự thi đại học ở những trường có tổ chức kỳ thi riêng (như Đại học Sư phạm, Đại học Y).

Đề án này khi đưa ra lấy ý kiến góp ý đã vấp phải một số ý kiến không đồng thuận, như Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển đã nêu ở trên. Thực ra, có nhiều điều tranh cãi chỉ xoay quanh là những vấn đề kỹ thuật cụ thể, và có thể điều chỉnh dễ dàng khi triển khai. Mối quan tâm lớn hơn của xã hội vào thời điểm ấy, cũng như bây giờ, là chất lượng của kỳ thi tốt nghiệp. Một tiền đề quan trọng để thực hiện cải cách tuyển sinh vì vậy đã được đặt ra, đó là: chỉ bỏ thi đại học sau khi đã tổ chức được kỳ thi tốt nghiệp THPT nghiêm túc và đúng thực chất.

Ngay từ năm 2007, ngành giáo dục Việt Nam đã chịu đau để thực hiện một kỳ thi tốt nghiệp theo hướng thực chất và chấp nhận một tỷ lệ tốt nghiệp khá thấp, nhưng vẫn được xã hội ủng hộ. Tiếc thay, vì nóng vội và sợ sức ép của dư luận, chúng ta đã vội vã thay đổi mỗi khi có ý kiến trái chiều, khiến cho việc tổ chức kỳ thi không năm nào hoàn toàn giống với năm nào. Vì vậy, tỷ lệ tốt nghiệp của các năm cũng không hoàn toàn so sánh được với nhau. Để giờ đây, dư luận lại có quyền nghi ngờ chất lượng của kỳ thi, khi tỷ lệ thi tốt nghiệp năm 2011 đã trở về tương đương với mức trước cải cách.

Phải chăng chúng ta đã đi một vòng để trở về đúng chỗ cũ? Theo tôi, mọi việc không hẳn là như thế. Những nỗ lực cải cách của ngành giáo dục trong những năm qua chắc chắn đã có những tác dụng của nó. Chính vì đã có những kinh nghiệm – cả tốt lẫn xấu – cũng như rất nhiều tranh luận, nên xã hội đã hiểu rõ hơn về yêu cầu của các kỳ thi khác nhau, cũng như vai trò của thi cử tại Việt Nam như một phần của nỗ lực nâng cao chất lượng giáo dục.

Chỉ có điều, những cải thiện đang diễn quá chậm chạp, trong khi đòi hỏi của thực tế vô cùng ráo riết. Giờ đây, có lẽ đã đến lúc chúng ta phải nhanh chóng áp dụng những giải pháp đã được đề ra trong đề án cải cách tuyển sinh với những lộ trình và bước đi cụ thể đã được xây dựng sẵn.

Công việc chắc chắn sẽ rất nhiều, và không hề dễ. Nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện được, với một điều kiện: Bộ dứt khoát không bao biện, làm thay cho cấp dưới, mạnh dạn trao thêm quyền cho các địa phương trong việc tổ chức các kỳ thi tốt nghiệp quốc gia (thi chung ngày, sử dụng chung đề thi, và áp dụng và quy trình chung của Bộ), và trả lại quyền tự chủ trong tuyển sinh cho các trường đại học.

Đến khi nào thì Bộ Giáo dục hoàn toàn sẵn sàng để thực hiện sự trao quyền này? Câu trả lời xin được nhường lại cho các vị có trách nhiệm của ngành giáo dục.

Tuesday, April 19, 2011

"Tuyển sinh đại học trên thế giới và những lưu ý cho các nước đang phát triển"

Bài viết này của tôi đã được đăng trong tập tài liệu có tựa đề là "Đổi mới tuyển sinh đại học và cao đẳng" tại Việt Nam (NXB ĐHQG 2009). Tài liệu này là kết quả của một số nghiên cứu nho nhỏ và những bài tham luận tại một Hội thảo mà Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng đào tạo của ĐHQG-HCM nơi tôi hiện đang làm việc đã tổ chức vào năm 2008; khi ấy Bộ Giáo dục và Đào tạo đang ráo riết đẩy mạnh chủ trương đổi mới tuyển sinh đại học tại VN với kỳ thi "2 trong 1". Hội thảo ấy là nhằm đưa ra những ý kiến và kiến nghị để chuẩn bị cho thời gian khi Bộ thực hiện việc đổi mới tuyển sinh, mà ai cũng nghĩ rằng sẽ xảy ra sau đợt tuyển sinh năm 2009 (tức nếu có xảy ra thì phải xảy ra vào năm 2010).

Thế mà cho đến nay đã là năm 2011 rồi, kỳ thi 3 chung với tất cả những nhược điểm đã bộ lộ của nó vẫn còn nguyên vẹn tại VN. Cũng có một số trường được giao quyền chủ động xây dựng phương án tuyển sinh mới trong năm nay, 2011, nhưng không trường nào cảm thấy mình đã sẵn sàng để nhận quyền chủ động này. Chẳng hiểu tại sao lại thế nhỉ?

Trong tình hình đó, tôi ngồi đọc lại tài liệu hội thảo và những bài viết mà mình đã viết, và thấy dường như những vấn đề được nêu ra đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nên đăng lại lên đây để chia sẻ với mọi người. Ai sử dụng, xin làm ơn báo cho tác giả qua comment, kèm email liên hệ, tôi sẽ gửi đầy đủ bibliographic information để các bạn chú thích và dẫn chứng cho đúng cách.

Như các bạn sẽ thấy khi đọc vào bài viết, đây chỉ là một bài viết nhằm giới thiệu tài liệu của nước ngoài đến với người VN, kèm một số nhận định của tôi cho việc áp dụng những kinh nghiệm trên thế giới mà thôi. Chẳng có phát kiến gì to tát cả. Nhưng đôi khi người ta cũng chỉ cần thế thôi: Áp dụng những kiến thức, trí tuệ sẵn có của nhân loại để giải quyết những vấn đề của mình.

Mong rằng bài viết cũng cung cấp được cho các bạn một ít thông tin gì đấy có ích.

------------

TUYỂN SINH ĐẠI HỌC TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG LƯU Ý CHO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Vũ Thị Phương Anh


Mở đầu
Cùng với sự gia tăng về tầm quan trọng của giáo dục đại học trong nền kinh tế tri thức, tuyển sinh đại học đang là một vấn đề được đặc biệt quan tâm trong các cuộc cải cách giáo dục trên thế giới. Trong bối cảnh này, Tháng 7/2008 vừa qua Ngân hàng Thế giới đã cho xuất bản tài liệu University Admission Worldwide (Tuyển sinh đại học trên thế giới) của tác giả Robin Matross Helms. Mục đích của tài liệu là giúp đỡ các nhà lãnh đạo giáo dục các nước đang phát triển cải cách việc tuyển sinh đại học, vì theo tác giả, việc tuyển sinh hiện nay tại các nước đang phát triển là một thực tại đầy những lo ngại và thách thức do sự thiếu minh bạch, thiên vị và bất công. Bài viết này tóm tắt những thông điệp chính từ tài liệu nói trên nhằm góp phần định hướng cho việc đổi mới tuyển sinh đại học tại Việt Nam theo kế hoạch đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo vạch ra.

Các hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới

Để cải cách tuyển sinh đại học, các nước đang phát triển cần học hỏi từ quốc gia nào? Trả lời câu hỏi này không phải là dễ, vì công tác tuyển sinh đang được thực hiện rất khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Theo Helms, các hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới có thể chia thành 5 loại, dựa vào sự có mặt hoặc không có mặt của một hoặc nhiều trong 3 kỳ thi quan trọng: kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, kỳ thi tuyển sinh đại học, và bài kiểm tra năng lực chuẩn hóa (standardized aptitude test).

Bảng 1: Bảng phân loại các hệ thống tuyển sinh trên thế giới

Loại 1: Thi tốt nghiệp (TN) trung học phổ thông (Secondary Leaving Examinations):
+ Thi TN quốc gia: Pháp, Áo, Ireland, Ai Cập
+ Thi TN quốc gia và xét học bạ trung học phổ thông: Tanzania
+ Thi TN quốc gia và xét hồ sơ xin học: Anh
+ Thi TN theo tiểu bang/ khu vực và xét học bạ trung học phổ thông: Úc

Loại 2: Thi tuyển sinh đại học (Entrance Examinations)
+ Thi tuyển sinh quốc gia: Trung Quốc, Iran, Cộng hòa Gruzia
+ Thi tuyển sinh quốc gia và xét học bạ trung học phổ thông: Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha
+ Thi tuyển sinh theo từng trường: Argentina, Paraguay
+ Thi tuyển sinh theo từng trường và xét học bạ trung học phổ thông: Bulgaria, Serbia

Loại 3: Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa (Standardized Aptitude Tests)
+ Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa, hoặc xét học bạ trung học phổ thông: Thụy Điển
+ Xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa và hồ sơ xin học: Mỹ

Loại 4: Sử dụng nhiều kỳ thi (Multiple Examinations)
+ Thi tuyển sinh quốc gia, và thi tuyển sinh theo từng trường: Nhật, Nga, Pháp (hệ thống Grande Ecoles)
+ Thi tuyển sinh quốc gia, thi tuyển sinh theo từng trường, và/ hoặc xét học bạ trung học phổ thông: Brazil
+ Thi TN phổ thông và xét điểm tuyển sinh theo từng trường: Phần Lan
+ Thi TN phổ thông và xét kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa: Israel
+ Thi nhiều kỳ thi do nhiều nơi tổ chức: India

Loại 5: Không tổ chức thi (No Examinations)
+ Chỉ xét xọc bạ trung học phổ thông: Na Uy, Canada
+ Chỉ xét hồ sơ xin học mà không cần kết quả kiểm tra năng lực chuẩn hóa: một số trường của Mỹ


Bảng phân loại các hệ thống tuyển sinh trên thế giới cho thấy chính sách tuyển sinh của các quốc gia là rất khác nhau, vì chúng được thiết lập để phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng quốc gia nhằm phục vụ các mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, với tất cả sự khác biệt vừa nêu, các hệ thống tuyển sinh đại học trên thế giới cũng rất giống nhau. Có thể nói, 5 hệ thống được nêu trong bảng phân loại nói trên tựu trung tạo thành 2 nhóm chính: một nhóm tuyệt đối hóa vai trò của các kỳ thi (thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh đại học, hoặc kỳ thi năng lực chuẩn hóa) do nhà nước hoặc một tổ chức bên ngoài trường đại học đứng ra tổ chức hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp; nhóm còn lại không chỉ sử dụng kết quả của các kỳ thi mà còn thêm vào những tiêu chí khác, và cho phép các trường tự quyết định một số tiêu chí xét tuyển sao cho phù hợp với mục tiêu đào tạo của từng trường.

Đâu là mô hình tốt nhất cho một nước đang phát triển? Việt Nam nên chọn hệ thống nào trong 5 hệ thống đã nêu, hoặc đơn giản hơn, nên theo nhóm nào trong 2 nhóm vừa nêu?

Những vấn đề cần xem xét khi thiết lập một hệ thống tuyển sinh đại học

Thật ra, vay mượn hoàn toàn mô hình của một nước khác không phải là cách tốt để giúp thiết lập một hệ thống tuyển sinh đại học phù hợp với mục tiêu, bối cảnh và nguồn lực của đất nước. Để có những phán đoán và lựa chọn đúng về các phương thức tuyển sinh, cần hiểu rõ tác động của một số lựa chọn đến chất lượng và hiệu quả của một hệ thống tuyển sinh. Theo Helms, có 5 vấn đề cần xem xét và đưa ra những lựa chọn với những hệ quả kèm theo.

1. Mức độ kiểm soát của nhà nước

Việc kiểm soát của nhà nước đối với việc tuyển sinh đại học được thực hiện bằng 3 biện pháp:
- Quyết định chỉ tiêu tuyển sinh (hoặc ở một số nơi, số lượng thí sinh sẽ được nhận học bổng của nhà nước) mà mỗi trường và mỗi chương trình đào tạo được phân bổ;
- Thiết lập một quy trình tuyển sinh thống nhất được điều phối từ trung ương;
- Trực tiếp điều hành kỳ thi tốt nghiệp THPT hoặc tuyển sinh đại học.

Mức độ kiểm soát cao nhất là khi nhà nước thực hiện cả 3 biện pháp nói trên, ví dụ như ở Trung Quốc, cũng như tại Việt Nam hiện nay. Ở nhiều nước, nhà nước chỉ nắm quyền kiểm soát một phần và tập trung vào một hoặc hai trong những biện pháp nói trên, và giao quyền cho các trường hoặc một tổ chức khảo thí độc lập thực hiện những biện pháp còn lại.

Trên nguyên tắc, nhà nước càng nắm quyền kiểm soát chặt chẽ ở đầu vào (tuyển sinh) thì càng đảm bảo chất lượng cũng như hiệu quả ở đầu ra (sinh viên tốt nghiệp). Điều này là cần thiết để nhà nước có thể thực hiện những điều tiết mang tính chiến lược, ví dụ như thu hút đủ số sinh viên học ở một ngành cụ thể nhằm đáp ứng thị trường lao động. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc kiểm soát của nhà nước không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả mong đợi, vì có rất nhiều yếu tố tác động đến kết quả của các chính sách tuyển sinh, ví dụ như tỷ lệ du học ở nước ngoài hoặc nạn chảy máu chất xám.

Trong khi đó, nếu nhà nước giảm bớt sự kiểm soát của mình và giao thêm quyền tự chủ cho các trường trong công tác tuyển sinh, thì các trường sẽ có cơ hội để tự tìm ra được những phương thức phù hợp nhất với sứ mạng, mục tiêu, và nguồn lực của mình. Mỗi trường sẽ khai thác được tối đa các thế mạnh của mình để thu hút và đào tạo ra các sinh viên tốt nhất trong từng lãnh vực chuyên môn riêng biệt để cung cấp cho thị trường lao động và đóng góp vào nền kinh tế của đất nước.

2. Mức độ khách quan của các tiêu chí tuyển sinh

Việc sử dụng điểm thi như một (trong những) tiêu chí tuyển sinh, đặc biệt là các kỳ thi trắc nghiệm khách quan (TNKQ) là nhằm đạt được sự chuẩn hóa và khách quan trong tuyển sinh. Khi tất cả các thí sinh cùng được kiểm tra trên cùng một bài thi, thì việc so sánh để tuyển chọn sinh viên xem ra rất khách quan vì dựa trên những điểm số minh bạch. Sự minh bạch này là rất cần thiết tại các quốc gia có tồn tại sự tiêu cực trong giáo dục.

Tuy nhiên, ngay cả nếu chỉ sử dụng kết quả của các kỳ thi trong tuyển sinh thì cũng không hoàn toàn tránh được yếu tố chủ quan, trước hết là vì thực ra đa số các kỳ thi đều phải có phần thi tự luận, vốn đòi hỏi phải đánh giá theo phương pháp chủ quan. Ngoài ra, kể cả khi thi bằng TNKQ thì cũng chỉ có phần chấm điểm là khách quan hoàn toàn, còn việc chọn lựa nội dung kiểm tra, xây dựng đáp án, đặt trọng số cho các phần của bài thi … đều là những việc làm có ít nhiều tính chủ quan.

Vì vậy, việc sử dụng thêm một số tiêu chí chủ quan khác như thư giới thiệu, học lực phổ thông, hoặc kết quả phỏng vấn trong xét tuyển để làm tăng sự đa dạng của các tiêu chí tuyển sinh sẽ có tác dụng tốt, tránh được những hậu quả của việc “dồn hết trứng vào một rổ”, làm cho việc tuyển sinh được công bằng hơn, và (kỳ lạ thay!) cách làm này lại khách quan hơn là chỉ sử dụng điểm thi.

3. Độ tin cậy và độ giá trị của các bài thi sử dụng trong tuyển sinh

Với tư cách là các thước đo nhằm so sánh các thí sinh, tất cả mọi tiêu chí được dùng trong tuyển sinh, mà đặc biệt là điểm số của các bài thi tuyển chọn, đều phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản của một công cụ đo lường là có độ tin cậy và độ giá trị tốt. Để đáp ứng được hai yêu cầu này, các đề thi cần được xây dựng theo một quy trình chuyên nghiệp và được thử nghiệm cẩn thận, sao cho điểm số trên các bài thi thực sự phản ánh đúng năng lực cần có của thí sinh chứ không phải là một yếu tố nào khác, ví dụ như kỹ năng đối phó với một dạng thức bài thi nào đó, hoặc là kết quả của quá trình luyện thi.

Để đảm bảo đạt được độ tin cậy cao của các kỳ thi, hình thức TNKQ đã ra đời, và trong một thời gian dài các kỳ thi năng lực chuẩn hóa sử dụng hình thức TNKQ đã chiếm vai trò độc tôn. Tuy nhiên, trên thực tế việc quá nhấn mạnh tầm quan trọng của một kỳ thi nào đó sẽ dẫn đến nhu cầu luyện thi để đạt điểm cao nhất có thể được. Hệ quả của điều này là giá trị của các bài thi bị giảm sút đáng kể, vì sẽ có những thí sinh đạt được kết quả cao chỉ do có các kỹ năng đối phó với thi cử tốt. Vì vậy, ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới hiện nay, mà đặc biệt là ở Hoa Kỳ, cái nôi của TNKQ, xu thế mới là không còn quá phụ thuộc vào điểm số đạt được của các kỳ thi năng lực chuẩn hóa (vd: SAT hoặc ACT) như trước đây nữa, mà sử dụng thêm các tiêu chí ít nhiều mang tính chủ quan khác (đã nêu ở phần 2) để góp phần nâng cao giá trị của các tiêu chí tuyển sinh.

4. Sự công bằng trong tuyển sinh

Thoạt nhìn, để đạt được sự công bằng trong tuyển sinh có vẻ là một vấn đề khá đơn giản: chỉ cần tạo điều kiện sao cho các thí sinh có năng lực tốt hơn có nhiều cơ hội học tập hơn. Nếu thống nhất với quan điểm này, thì công bằng trong tuyển sinh gần như đồng nghĩa với mức độ khách quan trong các tiêu chí tuyển sinh đã nêu ở mục 2.

Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Việc sử dụng điểm thi làm tiêu chí duy nhất trong tuyển sinh để đạt được sự khách quan đã bỏ qua một yếu tố rất quan trọng đã được các nhà chuyên môn trong lãnh vực kiểm tra đánh giá giáo dục nhiều lần nêu rõ, là nội dung của các bài thi quan trọng luôn có nguy cơ tạo ra sự đánh giá thiên lệch đối với một số đối tượng cụ thể. Ngoài ra, cơ hội làm quen với bài thi và luyện thi không đồng đều giữa các đối tượng cũng là một yếu tố tạo ra bất bình đẳng trong tuyển sinh.

Quan trọng hơn nữa, vai trò của giáo dục đại học trong việc thúc đẩy sự công bằng xã hội giữa các nhóm đối tượng cũng cần phải được xem xét. Các đối tượng thiệt thòi trong xã hội (nữ giới, dân tộc ít người, dân cư các vùng hẻo lánh) cần phải được tạo điều kiện tiếp cận với giáo dục đại học nhiều hơn để có thể đem lại các tác động tích cực đối với cộng đồng của họ. Việc tuyển sinh đơn thuần dựa vào một kỳ thi mà các nhóm đối tượng này không có nhiều cơ hội để chuẩn bị tốt chính là tạo thêm sự bất công xã hội trong giáo dục.

Nhiều hệ thống tuyển sinh trên thế giới ngày nay đã đưa thêm các yếu tố dân số như giới tính, độ tuổi, nhóm chủng tộc, nhóm xã hội vv vào các tiêu chí xét tuyển vào đại học. Tất nhiên, các chính sách liên quan đến công bằng trong tuyển sinh ở mỗi nước là khác nhau, tùy theo tình hình thực tế ở nơi đó. Ở các nước mà tiêu cực trong giáo dục đang hoành hành thì việc dựa vào những điểm số khách quan của các kỳ thi khách quan có vẻ như là giải pháp duy nhất để đem lại sự công bằng trong tuyển sinh, nhưng về lâu về dài cũng cần xem xét lại những hạn chế và hậu quả xã hội có thể có của chính sách này.

5. Kiểm soát chất lượng công tác tuyển sinh

Theo Helms, cho dù hệ thống tuyển sinh nào đang được áp dụng tại một quốc gia, thì nhất thiết công tác tuyển sinh cũng phải được triển khai một cách hiệu quả, và chất lượng công tác tuyển sinh phải được kiểm soát nghiêm nhặt để tạo được sự công bằng và chính xác trong kết quả tuyển sinh. Điều quan trọng ở đây là phải tạo ra được một hệ thống minh bạch có giám sát lẫn nhau giữa các bên có liên quan – nhà nước, trường đại học, giảng viên, sinh viên, gia đình và xã hội.

Chỉ có sự minh bạch và giám sát thường xuyên của tất cả các bên có liên quan mới có thể tạo ra một hệ thống tuyển sinh hoạt động thực sự có hiệu quả, thường xuyên phát hiện những yếu tố cần cải thiện, và thường xuyên cải thiện hệ thống để đạt được những mục tiêu mà nền giáo dục đại học của một quốc gia đã đặt ra.

Kết luận:
Như đã nêu ở trên, việc vay mượn không phê phán mô hình tuyển sinh của bất kỳ nước nào trên thế giới cũng đều không đem lại sự cải thiện đối với công tác tuyển sinh ở các nước đang phát triển. Để thiết lập một hệ thống tuyển sinh phù hợp, các nhà lãnh đạo giáo dục ở mỗi quốc gia phải tự mình cân nhắc và đưa ra các lựa chọn về các vấn đề vừa nêu sao cho phù hợp với mục tiêu, bối cảnh và nguồn lực của mình. Và để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn, điều kiện cơ bản cần phải có là một hệ thống thu thập và quản lý thông tin một cách hiệu quả. Hệ thống này sẽ cho phép phân tích và so sánh dữ liệu về số thí sinh, điểm thi, tỷ lệ nhập học, tỷ lệ tốt nghiệp, cũng như nhiều biến số khác ở các cấp quốc gia, khu vực và nhà trường. Những thông tin rút ra được từ các dữ liệu này sẽ cho phép chính phủ đánh giá hiệu quả của các quy trình tuyển sinh trong việc đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội của giáo dục đại học để đưa ra những điều chỉnh cần thiết và đúng lúc.

Tài liệu tham khảo

1. Cabrera, A. F. & R. K. Burkum (2001) College Admission Criteria in the United States: An Overview (Tổng quan về các tiêu chí tuyển sinh đại học tại Hoa Kỳ). Báo cáo trình bày nhằm chuẩn bị cho Hội thảo về Tuyển sinh đại học tại ĐH Kỹ thuật Madrid, Madrid, Tây Ban Nha 9/11/2001.

2. Helms, R. M. (2008) University Admission Worldwide (Tuyển sinh đại học trên thế giới). Washington DC: World Bank. URL: http://siteresources.worldbank.org/EDUCATION/Resources/278200-1099079877269/547664-1099079956815/EWPS15_University_Admission_Worldwide.pdf

3. Oregon State Board of Higher Education (2007) Undergradutate Admission Policy for 2008-2009 Academic Year (Chính sách tuyển sinh đại học trong hệ thống ĐH Oregon năm học 2008-2009).

4. University of Pittsburgh (2008) Common Data Set 2007-2008 (Bộ số liệu chung năm học 2007-2008 của ĐH Pittsburgh)
---
Một vài tài liệu liên quan đến vấn đề tuyển sinh của Mỹ:

1. http://chronicle.com/article/Busting-the-Myth-of-College/127167/
2. http://chronicle.com/blogs/brainstorm/stalking-the-true-college-acceptance-rate/33948
3. http://chronicle.com/blogs/brainstorm/real-college-acceptance-rates-are-higher-than-you-think/23231

Monday, April 18, 2011

"Ý nghĩa các khối thi đại học"

Một bạn PV có vừa gọi cho tôi với một câu hỏi rất thú vị: Liệu việc chia khối thi đại học như hiện nay có còn ý nghĩa nữa không, khi một số ngành trước đây theo truyền thống chỉ thi một khối (chẳng hạn, khối C của trường XHNV thuộc ĐHQG-HCM) thì nay cũng đã chấp nhận cả các khối khác vào thi nữa.

Một câu hỏi rất hay, và nó làm cho tôi giật mình vì từ lâu tôi vẫn chấp nhận việc thi theo các khối là bình thường như nó phải là như thế, vì ... làm lâu rồi quen, mà không nghĩ là làm như thế có cần thiết không (có thể là cần thiết lúc mới ra đời, nhưng bây giờ thì???).

Chính vì câu hỏi ấy mà tôi phải bỏ chút thời gian ra tìm hiểu. Và tất nhiên, các tìm hiểu dễ nhất là tìm trên mạng (thuận tiện). Tôi đã tìm, và thấy một số, nên đưa lên dần lên đây, trước hết là để cho mình hiểu, và sau nữa là cũng chia sẻ với những ai quan tâm.

Vậy, đây là bài đầu tiên nhé. Có thể sẽ còn những bài khác.

-------
Nguồn: http://www.hieuhoc.com/huongnghiep/chitiet/y-nghia-cac-khoi-thi-2008-10-02

Ý nghĩa của các khối thi
(Bài viết từ năm 2008)

Không ít bạn học sinh đang phân vân không biết các khối thi đại học bao gồm các môn nào, học các khối đó thì thi trường nào. Bài viết sau đây, Hiếu Học xin tổng hợp các khối thi và trường đại học phù hợp để các bạn cùng tham khảo.

Khối thi và môn thi của các trường, ngành không thuộc diện năng khiếu

Khối A: Môn thi: Toán, Vật Lý, Hóa Học. Đây là khối thi được sự "ưu ái" của nhiều thí sinh nhất. Hầu như năm nào số sĩ tử đăng kí thi khối A luôn vượt trội so với những khối còn lại. Khối A là khối tự nhiên nên các ngành học của khối A phần lớn là những ngành thuộc nhóm công nghệ, kỹ thuật và có thêm một số ngành thuộc nhóm kinh tế nữa. Một số trường tuyển sinh khối A nổi bật trong nước:

Hà Nội:

- ĐH Bách Khoa
- ĐH Khoa học Tự nhiên - ĐH Quốc gia HN
- ĐH Công nghệ Thông tin - ĐH Quốc gia HN
- ĐH Kinh tế - ĐH Quốc gia HN
- HV Công nghệ Bưu chính Viễn thông
- HV Ngân hàng
- ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội
- Học viện Tài chính
- ĐH Giao thông vận tải HN
- ĐH Hàng hải

Huế

- ĐH Huế - ĐH Kinh tế
- ĐH Huế - ĐH Khoa học
- CĐ Công nghiệp Huế

Đà Nẵng:

- ĐH Đà Nẵng - ĐH Bách khoa
- ĐH Đà Nẵng - CĐ Công nghệ
- ĐH Đà Nẵng - ĐH Sư phạm
- ĐH Đà Nẵng - ĐH Kinh tế
- ĐH Đà Nẵng - CĐ Công nghệ thông tin

TP.HCM:

- ĐH Bách khoa TP.HCM - ĐH Quốc gia TP.HCM
- ĐH Khoa học Tự nhiên - ĐH Quốc gia TP.HCM
- ĐH Công nghệ thông tin TP.HCM - ĐH Quốc gia TP.HCM
- HV Công nghệ Bưu chính Viễn thông
- ĐH Ngân hàng TP.HCM
- ĐH Điện lực
- ĐH Kinh tế TP.HCM
- ĐH Nông lâm TP.HCM
- ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM
- ĐH Công nghiệp TP.HCM
- ĐH Giao thông vận tải TP.HCM

Khối B: Môn Thi: Toán, Hóa học, Sinh học. Nhóm ngành Y - Dược, Công nghệ Sinh học, hoá học, các ngành sư phạm khối B khá "kén" thí sinh. Tuy vậy, số lượng hồ sơ dự tuyển khối B không ít đi chút nào. Một số trường khối B nổi bật:

Hà Nội:

- ĐH Y HN
- ĐH Y tế công cộng HN
- HV Y dược cổ truyền
- ĐH Dược HN
- ĐH Nông nghiệp HN

Huế:

- ĐH Y Dược - ĐH Huế

Đà Nẵng:

- Cao Đẳng Lương thực thực phẩm

TP.HCM:

- ĐH Y Dược TP.HCM
- ĐHDL Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM
- Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế TP.HCM
- CĐ Công nghiệp thực phẩm TP.HCM
- CĐ Tài nguyên môi trường TP.HCM

Khối C: Môn thi: Văn, Lịch sử, Địa lý. Từ khi có chế độ miễn học phí sư phạm, các ngành Sư phạm khối C bao giờ điểm chuẩn cũng cao chót vót. Có một thực tế là điểm khoa Văn thường cao hơn so với nhiều khoa khác, thế nhưng sinh viên Sư phạm Văn khoa ra trường về địa phương thì tìm kiếm việc làm cũng tương đối khó khăn do nhu cầu giáo viên bộ môn này của bậc THPT các địa phương gần như "bão hòa".

Các trường ở Hà Nội:

- ĐH.KHXH&NV - ĐH Quốc gia HN
- Khoa Sư phạm - ĐH Quốc gia HN
- Khoa Luật - ĐH Quốc gia HN
- ĐH Công đoàn
- ĐH Văn hóa Hà Nội
- Phân viện Báo chí và Tuyên truyền

Huế:

- ĐH. Khoa học Huế

Đà Nẵng:

- ĐH Sư phạm - ĐH Đà Nẵng

TP.HCM:

- ĐH.KHXH&NV - ĐH Quốc gia TP.HCM
- ĐH Văn hóa
- ĐH Luật TP.HCM
- ĐH Sư phạm TP.HCM

Khối D: Môn thi: Toán, Văn, Anh văn. Bên cạnh các trường ĐH về ngoại ngữ, đối ngoại, xu hướng tuyển sinh khối D đã được nhiều trường đặc biệt là các trường đào tạo nhóm ngành Kinh tế đề xuất từ một vài năm nay.

Hà Nội:

- ĐH. Ngoại ngữ HN
- ĐH. Ngoại ngữ - ĐH Quốc gia Hà Nội
- ĐH. KHXH&NV - ĐH Quốc gia HN
- Khoa Sư phạm - ĐH Quốc gia Hà Nội
- Phân viện Báo chí và Tuyên truyền
- ĐH. Hà Nội
- HV Quan hệ Quốc tế
- ĐH. Ngoại thương

Huế:

- ĐH Ngoại ngữ - ĐH Huế

Đà Nẵng:

- ĐH Ngoại ngữ - ĐH Đà Nẵng
- ĐH Sư phạm - ĐH Đà Nẵng

TP.HCM:

- ĐH.KHXH&NV - ĐH Quốc gia TPHCM
- ĐH Ngoại thương
- ĐH Văn hóa TP.HCM
- ĐH Quốc tế - ĐH Quốc gia TP.HCM

Khối thi và môn thi của các trường, ngành thuộc diện năng khiếu

Khối V thi 3 môn: Toán, Lý, Vẽ mỹ thuật, trong đó 2 môn Toán và Lý thi cùng đề, cùng giờ và ngày thi với khối A. Môn vẽ thi vào ngày thi thứ 2, song song với môn Hóa của khối A. Đề môn vẽ do trường tự ra. Về điểm, môn vẽ sẽ nhân hệ số 1,5 hoặc 2 (tùy trường, như ĐH Ktrúc HN nhân 1,5). Trước khi nhân, nếu dưới 5 điểm là bị điểm liệt (đối với khu vực 3).

Các trường tuyển sinh khối V:

ĐH Kiến trúc HN, ĐH Mỹ thuật Việt Nam, ĐH Kiến trúc TP.HCM, ĐH Mỹ thuật TP.HCM, ĐH Trang trí Mỹ thuật Đồng Nai…

Khối T thi môn Toán, Sinh và Năng khiếu Thể dục Thể thao (tuyển vào các trường Thể dục thể thao, Khoa Thể thao của trường ĐH, CĐ Sư phạm).

Khối N thi môn Văn, Năng khiếu, nhạc, ký xướng âm (Khoa Sư phạm Âm nhạc, ĐHSP Hà Nội; các trường CĐ Sư phạm).

Khối M gồm Văn, Toán, Năng khiếu (Hát, Kể chuyện, Đọc diễn cảm) thi vào các trường ĐH sư phạm.

Khối H: Văn, Hình hoạ, Trang trí; khối R của trường ĐH Văn hóa, thi môn Văn, Sử và Năng khiếu (một trong 3 môn: đàn - hát - xướng âm (với ngành Âm nhạc), kết cấu một câu chuyện hoặc một chương trình sinh hoạt văn hóa, đàn, hát, múa, đóng kịch, đọc thơ diễn cảm (với ngành Phương pháp Câu lạc bộ).

Khối K dành cho các thí sinh đã tốt nghiệp CĐ hoặc THCN một số chuyên ngành kỹ thuật. Khối này thi các môn Toán, Lý và chuyên ngành đã học ở CĐ hay THCN. ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM còn có khối K, dành cho các thí sinh đã tốt nghiệp CĐ hoặc có bằng nghề bậc 3/7. Môn thi của khối K gồm Toán, Lý và một môn chuyên ngành đã học ở CĐ hoặc THCN.

Khối R là khối tuyển dành cho thí sinh thi vào các ngành liên quan đến công tác văn hóa quần chúng như âm nhạc, thông tin cổ động, gồm các môn thi văn, sử (đề khối C) và năng khiếu (nhân hệ số 2).

Khối S thi vào các ngành sân khấu, quản lý văn hóa, thi các môn văn và năng khiếu. Khối T dành cho thí sinh thi vào các ngành năng khiếu thể dục thể thao. Khối này thi các môn toán, sinh (đề khối B) và năng khiếu thể dục thể thao. Khối V là khối thi của các thí sinh thi vào các ngành liên quan đến kiến trúc, thiết kế, gồm các môn thi là Toán, Lý (đề khối A) và vẽ.

Như Tâm tổng hợp
----
Những bài khác có liên quan:

1. Sẽ xóa bỏ các khối thi đại học. Bài phỏng vấn nguyên thứ trưởng Bành Tiến Long từ năm 2006. Ở đây.

2. Bỏ tuyển sinh đại học theo khối. Bài viết năm 2008, tiếp tục bàn luận về vấn đề nêu ở trên. Ở đây.

3. Kỳ thi "2 trong 1": Có thể gộp, nhưng không nên vội. Bài viết năm 2008; đây là một ý kiến hơi khác với 2 ý kiến ở trên. Ở đây.

4. Tuyển sinh 2010: Thêm ngành mới, thêm khối thi. Như vậy rõ ràng là việc chia khối hiện nay không còn ý nghĩa nữa, vì chia xong rồi nhưng lại nhận thí sinh nhiều khối khác nhau, như vậy việc chia ra có giá trị gì đâu? Đọc ở đây.

Về vấn đề tuyển sinh đại học tại VN thì còn nhiều việc để bàn lắm, nên xin hẹn các bạn trong những entry tới nhé.

Monday, March 21, 2011

"Đi tìm một loại sinh viên khác"

Đó là phiên bản tiếng Việt của tôi cho cái tựa tiếng Anh của bài viết "Searching for a new kind of student" của tác giả Michael Alison Chandler. Bài viết đã đăng trên tờ Chronicle of Higher Education ngày 23/1/2011 tại địa chỉ http://chronicle.com/article/In-South-Korea-Searching-for/126015/.

Tôi đã giới thiệu bài ấy trên blog này một lần rồi, và nó là bài viết phải trả tiền mới đọc được nên hôm ấy tôi chỉ có thể giới thiệu một đoạn. Nhưng nay tôi đã có bản đầy đủ, một bài viết khá dài, thú vị mặc dù quá nhiều chi tiết, và tôi đã cho người dịch để sử dụng. Vì nội dung của nó khá phù hợp với bối cảnh VN hiện nay - đang vào "mùa tuyển sinh", với chủ trương của Bộ Giáo dục là giao cho một số trường tự tuyển sinh lấy chứ không phải theo "ba chung", tôi xin đăng đầu tiên của bài dịch ấy lên đây để chia sẻ với mọi người. Những phần sau xin đăng sau khi đã sử dụng ở những chỗ cần sử dụng.

--------
Đi tìm một loại học sinh khác

Tác giả: Michael Alison Chandler
Người dịch: Vũ Kim Khôi

Trong khi gần 700.000 học sinh ưu tú đối mặt với kỳ thi tuyển sinh đại học khắc nghiệt diễn ra tại Hàn Quốc trong tháng 11 vừa qua, thì anh chàng Yu Hwa Young lại đang chơi tàu lượn cao tốc và chụp ảnh tại công viên Everland. Tại sao lại như vậy?

“Chắc hẳn là mọi người rất ganh tị với tôi” – anh chàng 19 tuổi vừa tốt nghiệp từ trường THPT Posung cho biết.

Yu không tham dự kỳ thi tuyển sinh vì anh đã chính thức được nhận vào học ngành Quan hệ quốc tế tại trường Đại học Sogang; lý do anh được nhận dựa vào điểm số TOEFL gần như tuyệt đối, một bài phỏng vấn, và các hoạt động ngoại khóa mà anh đã tham gia khi còn là học sinh trung học như tham gia vào tờ báo của trường và mô hình giả lập hội đồng lien hiệp quốc dành cho giới trẻ.

Tại Hàn Quốc, kỳ thi tuyển sinh vốn trước đây đóng vai trò quyết định cơ hội vào đại học của các học sinh tốt nghiệp trung học, hiện đã không còn là giải pháp duy nhất nữa. Hơn 10% số tân sinh viên nhập học vào tháng 03 năm nay được lựa chọn bởi các cán bộ tuyển sinh mang tư tưởng mới, những cán bộ này đã được đào tạo để có thể đánh giá những phẩm chất khó đo lường của học sinh như khả năng lãnh đạo, và tư duy độc lập. Việc đổi mới tuyển sinh là tâm điểm của toàn bộ kế hoạch đổi mới chính sách hướng đến việc khuyến khích sự sáng tạo hơn là khả năng học thuộc lòng của học sinh; góp phần chấm dứt hoạt động dạy thêm, dạy kèm đang ngày càng nở rộ vốn góp phần làm tăng đáng kể chi phí mà học sinh và gia đình họ phải bỏ ra trong quá trình nỗ lực thi vào đại học.

Ông Lee Ju Ho, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc nhận định rằng việc tuyển sinh đại học cần phải được thực hiện trước tiên. Ông cho biết: “Hầu hết các bậc phụ huynh đều muốn con em mình vào được các trường đại học tốt nhất. Đây là nguyên nhân chính thúc đẩy nền văn hóa học tập chú trọng vào thi cử của chúng ta.”. “Mọi công sức của chúng ta đều dồn vào việc nâng điểm số của các học sinh, thay vì dùng để nuôi dưỡng sự sáng tạo hay những bản chất, khả năng tốt đẹp khác của con người. ….. Đây mới là thách thức lớn nhất của chúng ta.”

Trong năm 2010, Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc đã đầu tư 31 triệu Đô la Mỹ hay 35 tỉ Won vào việc trả lương và đào tạo các cán bộ tuyển sinh, một sự gia tăng đáng kể so với con số 2 triệu Đô la Mỹ chi cho hoạt động tương tự cách đây 3 năm. Hệ thống giáo dục đại học của quốc gia này hiện có hơn 100 trường đại học, trong đó bao gồm nhiều trường tư, không hoạt động bằng ngân sách của chính phủ.

(Xin mở ngoặc để nhận xét chút: Cải cách tuyển sinh rõ ràng là cần tiền, như bài viết đã cho thấy. Tốn kém chút cũng được, nếu như nó đem lại được kết quả tốt, tôi nghĩ vậy. Nhưng nếu muốn thế thì phải sử dụng các chuyên gia thực sự được đào tạo và có kinh nghiệm để vấn kế cho lãnh đạo trong việc đổi mới tuyển sinh.)

Những hoạt động đổi mới tương tự cũng đang diễn ra trong nền giáo dục của nhiều quốc gia khác trên thế giới, nơi mà vấn đề thi cử được nhấn mạnh một cách thái quá. Nguyên nhân của hiện tượng này là các trường đại học tại các quốc gia đó đang ngày càng chú trọng vào hoạt động sáng tạo cũng như cố gắng cải thiện vị thế trên thế giới của mình thông qua việc thu hút sinh viên quốc tế. Các trường đại học hàng đầu tại Hồng Kông và Trung Hoa đại lục đang dần mở rộng các tiêu chí tuyển sinh bao gồm việc xem xét những hoạt động xã hội và hoạt động sáng tạo của học sinh. Trước bối cảnh như vậy, Hội đồng Quốc gia về Tư vấn Tuyển sinh tại Hoa Kỳ đã đón tiếp nhiều phái đoàn từ Rumani, Ukraina và Hàn Quốc đến thăm và học hỏi kinh nghiệm từ quốc gia có cơ chế tuyển sinh linh hoạt này.

Tuy nhiên, việc thay đổi hoàn toàn một nền văn hóa thi cử có niên đại hàng trăm năm tuổi chắc chắn gặp nhiều khó khăn, không chỉ ở Hàn Quốc mà còn ở bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Các trường trung học và bản thân các gia đình cần nhiều thời gian để thích nghi với thay đổi, đặc biệt là tại các quốc gia nơi mà “hoạt động ngoại khóa” được hiểu là việc học thêm toán hoặc tiếng Anh, nơi mà sự cạnh tranh vào các trường đại học hàng đầu diễn ra quá khốc liệt đến nỗi việc học thêm là không thể tránh khỏi và các học sinh không còn thời gian để tham gia bất kỳ hoạt động nào khác ngoại trừ việc miệt mài học tập. Nhiều bậc phụ huynh tại Hàn Quốc tỏ ra rất nghi ngờ về việc liệu đợt cải cách của chính phủ có thể tồn tại qua đợt bầu cử tổng thống trong năm 2013 sắp tới.

Tuy vậy, theo nhận định của một số nhà quan sát thì những thay đổi ban đầu đang làm lóe lên những đối thoại có giá trị tại Hàn Quốc trong một thời khắc rất quan trọng. Các học sinh trung học đang dần suy xét về những lựa chọn tương lai của mình ngoài việc theo đuổi con đường học thuật. Các trường đại học thì đang bắt đầu tự đặt câu hỏi: “Loại tài năng trẻ nào mà chúng ta cần, và làm sao để tìm thấy họ?” – trích ý kiến của ông Chung Kwang Hee, một nhà nghiên cứu chính sách tuyển sinh tại Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Hàn Quốc.
--------------

Thursday, February 10, 2011

Hàn Quốc cải cách tuyển sinh, còn VN?

Tờ Chonicle of Higher Education vừa có bài viết đăng ngày 23/1/2011 có tựa là "Searching for a new kind of student in Korea" nói về những cải cách về tuyển sinh tại HQ. Bài ấy ở đây.

Bài này muốn đọc thì phải trả tiền, chứ không phải là bài miễn phí. Tuy nhiên, chỉ cần đọc cái tựa và phần giới thiệu vào bài viết thì ta cũng có thể đoán được việc cải cách tuyển sinh ở HQ đi theo hướng nào rồi: đi tìm những sinh viên không chỉ chăm học, thuộc bài, luôn trả lời đúng các đáp án đã học ở trường, mà còn tìm những sinh viên khác biệt, tức những người có tư duy phản biện, sáng tạo, và những loại thông minh khác ngoài thông minh trí tuệ (tức ngôn ngữ, toán học). Hãy đọc đoạn trích sau:

While nearly 700,000 aspiring college students in South Korea sat for the grueling university-entrance exam in November, Yu Hwa Young spent the day riding roller coasters and snapping pictures at Everland, an amusement park here.

"Everyone was jealous," said the 19-year-old recent graduate of Posung High School.

Yu skipped the test because he had already been admitted to an international-studies program at Sogang University, based on his grades, a near-perfect score ...


Việc cải cách tuyển sinh ở HQ thực ra đã được bàn đến từ nhiều năm qua. Theo một bài viết trên tờ Korea Joongang Daily ngày 8/2/2011, hệ thống tuyển sinh ở HQ hiện nay quá cứng nhắc vì bị chính quyền trung ương khống chế quá chặt chẽ, làm mất đi tính tự chủ vốn rất cần thiết để các trường đại học có thể hoạt động một cách hiệu quả nhất để hoàn thành sứ mạng riêng và trong điều kiện riêng của từng trường. Bài viết ấy có thể tìm ở đây.

Theo tờ Korea Herald ngày 23/11/2010, hiện nay việc tuyển sinh tại HQ đang dựa trên một bài thi chuẩn hóa (standardized test) theo kiểu SAT. Thí sinh dự thi trong một ngày với bài thi kéo dài đến 9 tiếng (!), và kết quả của nó là căn cứ duy nhất để quyết định xem học sinh sẽ được nhận vào học ở trường nào. Tất nhiên là một kỳ thi mang tính cạnh tranh khốc liệt như vậy hẳn phải gây rất nhiều áp lực đối với học sinh, và việc không đạt kỳ thi này gần như đồng nghĩa với việc kết thúc mọi mộng ước tương lai. Đó là lý do tại sao theo tờ báo thì hàng năm sau khi có kết quả kỳ thi thì lại có hàng loạt vụ tự tử. Không những thế, có đến 48% học sinh Hàn đã từng nghĩ đến việc tự sát, tờ báo này cho biết.

Đó là lý do tại sao kỳ thi này cần được cải cách. Cũng theo tờ Korea Herald:

[T]he Ministry of Education acknowledges that students are under intense pressure. “We recognize that Korea SAT is a heavy burden on our students,” said a spokesman for the ministry, “so our ministry has researched CSAT reformation since last year. This reformation is to reduce the weight of CSAT as an element of the university admission process.”

Among the reforms being considered is to give students who think they did badly a chance to re-sit the exam two weeks later. Another possibility is to offer an easier, lower level option in subjects such Korean and English along with a higher option, something already provided for in mathematics. The changes could come into effect by 2013, according to the ministry.


Tóm tắt: giảm tỷ lệ của điểm thi CSAT (tên bài thi tuyển sinh của HQ) trong quá trình xét tuyển, tạo ra các phiên bản với mức độ khó khác nhau đối với một số môn thi và cho thí sinh chọn mức độ khó của bài thi, và tạo điều kiện cho thí sinh thi lại lần 2. Việc cải cách dự kiến sẽ hoàn tất vào năm 2013.

Như vậy là cùng với TQ, HQ cũng đang cải cách tuyển sinh theo hướng làm giảm áp lực, đồng thời tăng các yếu tố xét tuyển - không chỉ chú trọng năng lực học tập hàn lâm, mà còn các yếu tố khác nữa, ví dụ như các năng khiếu âm nhạc, thể thao, hoạt động xã hội .... Tất cả nhằm tạo ra một nguồn tuyển đa dạng cho các trường đại học để có được những tài năng cho xã hội sau này. Một nguồn tuyển sinh tốt chắc chắn sẽ giúp tạo ra những trường đại học có chất lượng tốt, phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội.

Còn tuyển sinh của VN thì sao nhỉ? Cải cách sẽ đi theo hướng nào, nếu có cải cách? Hay chỉ là loay hoay với việc có mấy phiên bản của bài thi (4, 6, hay mỗi thí sinh một phiên bản?), có mấy giám thị trong phòng thi, có đổi bài, chấm chéo hay không, thi trắc nghiệm hay thi tự luận. Tức chỉ loay hoay ở các vấn đề kỹ thuật, mà quên đi mục tiêu của tuyển sinh là gì, phục vụ cho ai, và cách làm hiện nay có đạt được điều đó một cách tối ưu không. Nên cứ càng thay đổi, cải cách, thì hình như lại càng ... cũ! Giống như câu tiếng Anh, "the more things change, the more they stay the same" vậy.

Ôi, bao giờ cho đến ngày xưa của tuyển sinh VN nhỉ?

Tuesday, January 11, 2011

Cải cách tuyển sinh tại TQ: rất đáng quan tâm!

Tôi đã theo dõi "công cuộc" cải cách tuyển sinh ở TQ từ mấy năm nay rồi. Và tin rằng thế nào họ cũng sẽ có những đổi mới mạnh mẽ trong những năm tới, nếu như họ muốn tiếp tục đưa nền giáo dục đại học của họ lên đến những bước phát triển cao hơn hiện nay.

Bởi vì, mục đích quan trọng nhất, và thậm chí có thể xem là duy nhất, của việc tuyển sinh là lựa chọn được những học sinh phù hợp nhất để đào tạo. Tức là chọn những nguyên liệu tốt nhất để đưa vào quá trình sản xuất, hầu có được sản phẩm cuối cùng tốt nhất.

Mấy ngày qua tôi cũng đã có ý định bắt đầu viết một bài có tính hàn lâm chút ít về việc cải cách tuyển sinh tại TQ, nhưng còn đang bận chưa viết được. Thì hôm nay đọc được tin này trên Dân Trí, vội phải giới thiệu ngay.

Các bạn đọc ở đây. Thí sinh TQ được thi đại học 2 lần/năm.

Và đây là điều đáng chú ý (trích):

Ngoài ra, kế hoạch cải cách thi ĐH của Bộ Giáo dục Trung Quốc còn yêu cầu các trường ĐH chú ý hơn đến khả năng toàn diện của thí sinh cũng như điểm số của các em trong những năm học phổ thông.

Đấy, như thế là xu thế đa yếu tố trong tuyển sinh đã thắng thế ở TQ. Cũng là điều mà phương Tây đã làm rất nhiều năm nay, để tạo ra những nền đại học thành công.

Nó cũng là điều mà nhiều nhà cải cách giáo dục đại học của VN đã kêu gọi, nhiều lúc, nhiều nơi, trong suốt nhiều năm qua. Nhưng không được chấp nhận.

Bây giờ TQ cải cách tuyển sinh, thì tôi tin rằng VN cũng sẽ đi theo chiều hướng ấy. Thế là tốt.

Chỉ có một thắc mắc, nếu TQ chưa cải cách thì liệu VN có sẽ cải cách không nhỉ? Có lẽ là ... chưa! Nhưng tại sao mình lại cứ phải đợi TQ đi trước rồi mới dám làm? Chẳng lẽ người Việt không có chỗ nào có thể làm trước TQ được hay sao? Tên của dân tộc chúng ta, người Việt, tức là "vượt" kia mà? Sao không dám vượt?

Thực sự tôi tò mò muốn biết câu trả lời cho điều này quá chừng!

Và sẽ còn quay trở lại với việc cải cách tuyển sinh của TQ nữa, trong những entry khác, khi có chút thời gian. Các bạn đón xem nhé.

Friday, July 23, 2010

Lại nói về tuyển sinh (so boring!)

Nội dung dưới đây là phần trả lời phỏng vấn của tôi trên báo Phụ Nữ Thủ Đô cách đây ít lâu, sau khi kỳ thi tuyển sinh đại học hoàn thành.

Do không đọc báo Phụ Nữ Thủ Đô nên tôi cũng chẳng biết báo có đăng bài không, và không quan tâm đến nữa. Nhưng hôm nay tôi PV của báo gọi để lấy địa chỉ gửi báo biếu, mới biết bài đã đăng. Vì vậy, nay mới đăng bài PV lên đây (báo này chưa có phiên bản online). Vấn đề hơi cũ rồi, hết tính thời sự (hiện nay còn những vấn đề khác, scandalous hơn nhiều!), nhưng cũng cứ đưa lên. Vì ít nhất thì cũng lưu được trên này, hầu có lúc tôi hoặc ai đó cần tìm lại.

Dù boring, nhưng cũng mong mọi người đọc và có ý kiến!

----
Lại một mùa tuyển sinh ĐH vừa kết thúc. Trái với những đánh giá lạc quan của Bộ GD-ĐT, TS Vũ Thị Phương Anh- giám đốc Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng GD- ĐH Quốc gia HCM lại cho rằng, lối thi ĐH “3 chung” như hiện nay đang có nhiều bất ổn. Bộ GD-ĐT cần sớm nói lời “cáo chung” với kỳ thi này…

Thưa bà, kỳ thi tuyển sinh ĐH 2010 đã kết thúc, được Bộ GD-ĐT đánh giá là đã diễn ra xuôn xẻ, công bằng, nghiêm túc. Ý kiến của bà về kỳ thi năm nay như thế nào?

Tôi không trực tiếp tham gia kỳ thi ở bất kỳ khâu nào trừ khâu chấm trắc nghiệm, nên không thể có ý kiến chính thức về việc tổ chức kỳ thi. Tuy nhiên, qua các thông tin trên báo chí, cũng như kinh nghiệm của những người thân, tôi nghĩ rằng kỳ thi năm nay cũng diễn ra tương tự như những năm trước. Có thể có ít vi phạm hơn như báo chí đã nêu, nhưng điều này cũng bình thường bởi vì kỳ thi đã diễn ra nhiều năm liền nên cả thí sinh lẫn giám thị đều nắm vững quy chế hơn, và thao tác thành thục hơn.

Về sự công bằng của kỳ thi, nếu chúng ta hiểu một cách đơn giản “công bằng” là tuyển chọn thí sinh dựa trên điểm số của cùng một bộ đề thi thì có lẽ chúng ta đã có một kỳ thi thực sự công bằng. Nếu quả thật có thể đạt được sự “công bằng trong tiếp cận giáo dục” chỉ bằng một kỳ thi thì tất cả sự tốn kém tiền của, công sức của toàn xã hội mà chúng ta vẫn thấy như hiện nay sẽ là một cái giá mà chúng ta phải chấp nhận. Nhưng thật ra công bằng trong giáo dục là một vấn đề phức tạp hơn nhiều và chắc chắn không thể đạt được chỉ bằng một kỳ thi, dù kỳ thi đó có an toàn, nghiêm túc đến bao nhiêu cũng vậy.

Tôi vẫn bảo lưu quan điểm mà tôi đã phát biểu ở những nơi khác, đó là việc tuyển sinh đại học nên trao lại cho các trường quyết định, còn Bộ nên tập trung vào những vấn đề khác, trong đó quan trọng nhất là chính sách đầu tư, để nâng cao chất lượng thực của giáo dục phổ thông.

Nói thêm, tôi cũng đang theo dõi rất sát trên báo chí Trung Quốc và thấy rằng nước này cũng đang có những thay đổi theo hướng trao quyền tự chủ trong tuyển sinh cho các trường đại học để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Tôi nghĩ, các nhà chính sách của Việt Nam nên tìm hiểu thêm về kinh nghiệm trao quyền tự chủ cho các trường đại học từ Trung Quốc, một mô hình mà hình như hiện nay ta đang chịu ảnh hưởng rất nhiều.

Bộ GD-ĐT đang ấp ủ kế hoạch tổ chức một kỳ thi “2 chung” thống nhất, vừa để xét tốt nghiệp và vừa tuyển sinh vào ĐH. Bà thấy ý tưởng này như thế nào?


Tôi không thích từ “hai chung”, hoặc như một số nơi đã sử dụng, là “hai trong một”. Vì đây là hai kỳ thi có những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn ủng hộ ý tưởng chỉ nên có một kỳ thi quốc gia, và kỳ thi đó nên là thi tốt nghiệp THPT.

Tôi cho rằng kỳ thi tốt nghiệp hiện nay như thế là đã tạm ổn, và phải nói rằng trong những năm vừa qua Bộ Giáo dục cũng đã tích lũy đủ kinh nghiệm để tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia “an toàn, nghiêm túc, và công bằng”. Tuy nhiên tôi cũng muốn đề xuất thêm với Bộ một yêu cầu của kỳ thi quốc gia này, đó là “ổn định”. Ổn định để phát triển, điều này không chỉ cần trong kinh tế hoặc chính trị, mà cũng cần cả trong giáo dục nữa.

Trên TG, người ta áp dụng cách thi nào để tuyển ứng viên vào ĐH?

Hiện nay các kỳ thi được TG sử dụng phổ biến gồm thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh ĐH và thi chuẩn hóa. Do khác nhau về mục tiêu nên các kỳ thi nêu trên cũng thuộc quyền quản lý của các cơ quan khác nhau.

Thi tốt nghiệp THPT thường do Nhà nước quản lý. Thi tuyển sinh ĐH do chính trường ĐH thực hiện để làm cơ sở ra quyết định về việc lựa chọn TS trong trường hợp số chỗ học ít hơn số người muốn học. Trong khi đó kỳ thi chuẩn hóa thường do các tổ chức khảo thí chuyên nghiệp thực hiện.

Việc sử dụng kỳ thi nào trong phương án tuyển sinh hoàn toàn tùy thuộc vào mục tiêu và điều kiện của từng quốc gia, từng trường ĐH. Những quốc gia phát triển như nhiều nước ở châu Âu hoặc các nước Bắc Mỹ nơi có hệ thống GD phổ thông có chất lượng tốt và có đầy đủ chỗ học ở ĐH cho mọi người thì hầu như chỉ cần kỳ thi tốt nghiệp THPT.

Một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, có sự phân biệt trường ĐH công, ĐH tư (ở các nước này ĐH tư thường phải đóng học phí cao và chất lượng nhìn chung không bằng các ĐH công) thì sự cạnh tranh vào trường công lại gay gắt nên cần có vai trò gác cổng của các kỳ thi và thậm chí phải tổ chức thêm nhiều kỳ thi khác sau kỳ thi tốt nghiệp THPT. Nói chung, không có mẫu hình nào là “đúng” cho mọi quốc gia.

Gần đây, có ý kiến cho rằng, muốn giảm tải cho HS thay vì tổ chức thi ĐH và thi tốt nghiệp, chúng ta nên lấy luôn kết quả học tập ở THPT để xét vào ĐH. Quan điểm của bà như thế nào?

Các kỳ thi lớn dù có được tổ chức nghiêm túc đến đâu, dù có tổ chức bao nhiêu kỳ thi đi nữa cũng chỉ đánh giá được phần nào kiến thức và năng lực của HS. Trong khi đó, việc quá nhấn mạnh vào các kỳ thi có vai trò “gác cổng” là nguyên nhân dẫn đến các tiêu cực trong thi cử, chưa kể gây căng thẳng với người học, tiêu tốn tiền bạc của XH…

Sử dụng kết quả phổ thông để xét tuyển vào ĐH là một cách làm tiên tiến về nhiều mặt bởi học bạ cho phép nhìn nhận năng lực của người học qua suốt một quá trình chứ không chỉ ở điểm cuối; Với cách làm này, quyền đánh giá người học đã được các trường ĐH trao về cho các giáo viên phổ thông.

Tuy có ưu điểm nhưng theo tôi, việc xét học bạ trong tuyển sinh thường không nên được sử dụng ở những nước đang phát triển như ở VN vốn không có một nền GD ĐH đại chúng. Điều này là do sự thiếu thống nhất về quan điểm đánh giá khiến kết quả tại các trường THPT có thể rất khác nhau và không thể so sánh để tạo cơ hội công bằng cho mọi người, trong điều kiện không có đủ chỗ học cho mọi người.

Vậy, theo bà, cách tuyển sinh ĐH nào là tối ưu trong điều kiện của VN hiện nay?

Không có phương án tuyển sinh tối ưu chung cho tất cả mọi người, mà cần thiết phải có phân biệt giữa các nhóm trường/ngành khác nhau. Theo tôi, đã đến lúc, Bộ GD-ĐT nên giao quyền tuyển sinh cho các trường. Theo tôi, nên có 3 phương án tuyển sinh cho các nhóm, trường/ngành, các đối tượng ưu tiên và các hệ đào tạo đặc biệt từ năm 2011 (lẽ ra phải thực hiện từ năm 2010 như dự kiến).

Nhóm đầu tiên, áp dụng với các trường/ngành không đặc thù, không có tính cạnh tranh cao và/hoặc không sử dụng kinh phí của Nhà nước thì sử dụng kết quả thi tốt nghiệp THPT và xét học bạ. Nhóm này bao gồm đa số các trường trung học chuyên nghiệp, CĐ công lập và NCL, các trường ĐH tư thục, một số trường ĐH CL thuộc khối ngành XH và NV (trừ ngoại ngữ). Việc xét học bạ THPT có thể thực hiện ngay từ khi HS đang ở học kỳ 2 của lớp 11.

Nhóm thứ 2 gồm các trường/ngành đặc thù, có tính cạnh tranh cao, đòi hỏi năng lực/ năng khiếu đặc biệt của người học và/hoặc nhận được sự đầu tư đặc biệt của Nhà nước nên sử dụng kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT và kết quả của một kỳ thi khác. Nhóm này gồm các trường ĐH công lập, đặc biệt là các ĐH trọng điểm; các chương trình liên kết với nước ngoài, các ngành đòi hỏi phòng thí nghiệm, thiết bị và điều kiện học tập đặc biệt như Y, Nha, kiến trúc, ngoại ngữ… Với nhóm này, việc sơ tuyển có thể gắn với những điều kiện khắt khe hơn và phải có một kỳ thi hoặc là đầu vào do chính trường tổ chức, hoặc là một kỳ thi chuẩn hóa (như SAT của Mỹ) do một tổ chức khảo thí chuyên nghiệp trong hoặc ngoài nước tổ chức.

Nhóm cuối cùng gồm các hệ đào tạo đặc biệt (hoàn thiện ĐH, tại chức, đào tạo từ xa, văn bằng 2…).. thì xét hồ sơ xin học và các yếu tố khác như giới tính, tuổi, địa phương… Do điều kiện đầu vào khá mở nên việc quản lý đối với đối tượng này cần rất chặt chẽ thông qua việc kiểm tra thường xuyên trong quá trình học theo nguyên tắc mở rộng đầu vào, thắt chặt đầu ra.
--
Nói thêm chút: Trừ câu trả lời đầu tiên, những câu sau thật ra chỉ lập lại ý tưởng của một bài viết mà tôi đã công bố trong một hội thảo về tuyển sinh do TT của tôi thực hiện năm 2008, và in thành sách năm 2009.

Nhưng đến nay, mọi việc vẫn còn ... mới, mà đã 2 năm rồi đó! Đủ biết, muốn thay đổi một cách làm, cách nghĩ, là điều không hề dễ dàng. Còn tôi, thì đã già, sắp về hưu, không còn thời gian nữa. Mà những điều đã được học, cách đây gần 15 năm rồi cho đến nay vẫn còn ... quá mới! Hic hic!!!

Friday, July 16, 2010

“Đã đến lúc trao quyền tự chủ trong tuyển sinh cho trường đại học”

Đó là tựa của một bài phỏng vấn tôi cách đây ít lâu, nay được đăng trên SGTT Media. Ở đây. Đã tưởng không được sử dụng vì ... nhạy cảm? Như thế, có lẽ đây là tín hiệu đáng mừng: Giới truyền thông hiện đã mạnh dạn hơn (vì được cởi mở hơn?) trong vai trò phản biện xã hội.

Về vấn đề tuyển sinh đại học, ĐHQG-HCM đã có tổ chức một hội thảo lớn trong năm 2008, vì lúc ấy Bộ dự kiến sẽ không còn thi đại học mà sẽ tổ chức kỳ thi "hai trong một". Những ý kiến của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học vv cũng đã được đưa ra trong hội thảo này. Báo chí cũng đưa tin nhiều, và kỷ yếu hội thảo sau đó còn được in thành sách. Tôi cũng có đưa thông tin và một vài bài viết trên blog này. Nhưng cho đến nay mọi việc vẫn chưa có thay đổi gì lớn.

Tôi vẫn nghĩ, lực lượng khoa học của VN hiện nay không nhỏ, mặc dù cũng không lớn. Nếu có chính sách tập hợp, lắng nghe, và sử dụng tốt, thì rất nhiều mục tiêu đã đề ra có thể được thực hiện có hiệu quả hơn hiện nay rất nhiều.

Nhưng chẳng hiểu tại sao mọi việc ở VN hình như bao giờ cũng rất chậm? Chợt nhớ tựa bài dịch mà tôi mới gửi cho Tia Sáng gần đây: Cải cách tuyển sinh ở TQ - nhưng chỉ một chút thôi!

Wednesday, July 14, 2010

Hai bài mới viết cho Tia Sáng về tuyển sinh đại học ở Trung Quốc

Nhân mùa tuyển sinh đại học tại VN, Tia Sáng có đề nghị tôi viết bài về vấn đề này.

Nói mãi về tuyển sinh của VN thì cũng chán, vì những vấn đề cần nói mọi người đã nói hết rồi. Nên tôi nhìn sang nước láng giềng của VN là Trung Quốc để xem chúng ta có thể học hỏi được gì từ đất nước này không.

Và thấy, rõ ràng là có nhiều việc để học! Kỳ thi tuyển sinh đại học của TQ hiện nay đang được mệnh danh là kỳ thi lớn nhất hành tinh, đã được tổ chức chuyên nghiệp lắm lắm. Có hơn 50 năm tồn tại rồi. Tốt hơn chúng ta nhiều rồi. Và kèm theo nó là một ngành công nghệ luyện thi và tổ chức thi, làm đề thi, vv, đem lại khá nhiều "công ăn việc làm" và lợi ích cho những người tạo ra ngành công nghệ đó.

Còn lợi ích cho nền giáo dục TQ, và cho toàn xã hội thì sao? Giới trí thức, và truyền thông TQ nghĩ gì? Xin mọi người đọc 2 bài sau đây mà tôi mới viết, đã đăng trên mạng của tờ Tia Sáng hôm nay.

Đây này. Tuyển sinh đại học: VN có học được gì từ TQ?đây nữa. Cải cách tuyển sinh ở TQ - nhưng chỉ một chút thôi.

Mọi người đọc, và trao đổi nhé! Bắt chước TS Nguyễn Xuân Diện, tôi mở blog cũng chỉ mong lấy comment làm lãi mà thôi!

Sunday, July 11, 2010

Thi cử thế này sao?

Kỳ thi tuyển sinh thế là đã kết thúc. Tôi vừa điểm qua vài cái tin về kỳ thi trên báo chí gần đây. Xin thử làm một mục điểm báo mini để mọi người có cái nhìn sơ bộ.

1. Thí sinh thiệt, còn các trường bỏ túi 16 tỷ! Tại sao ư? Nó liên quan đến việc đóng lệ phí dự thi. Nôm na, thì thế này: mọi năm khi đến dự thi thì mới đóng lệ phí (đóng vào ngày đầu tiên, khi phổ biến quy chế, làm thủ tục). Còn nay thì đóng trước, không thi thì mất tiền. Vậy đó. Các trường hài lòng, vì mọi năm vẫn kêu lỗ mà. Xem thêm ở đây này.

2. Những chuyện lạ lùng trong phòng thi. Ở đây. Không biết bình luận ra sao. Có lẽ chỉ có thể nói: bát nháo quá!

3. Nữ thí sinh liều mình .... Chà, tôi không viết được nữa, thật đúng là tin tức mình! Tin giáo dục mà giựt gân, và sexy như vậy sao? Ai tò mò, xin xem ở đây. Chuyện đúng là cười không nổi!

4. Tử nạn trên đường đưa con đi thi. Trời ơi! Tôi không thể nói gì hơn nữa. Xin mọi người tự đọc. Ở đây này.

5. Còn nữa. Đưa em đi thi, chị gái bị xe tải cán chết. Ở đây. Khi đọc tin này, và nhìn tấm hình đắp chiếu, tôi chỉ biết bàng hoàng, không còn thốt lên được tiếng kêu nào nữa.

6. Bạn bị shocked ư? Chưa hết đâu! Dưới đây nữa này: Không có giấy báo thi, nữ thí sinh uống thuốc tự tử! Ở đây.

Nhưng tin tức đúng sai thế nào chưa biết, vì tin chính thức của Sở GD tỉnh Lâm Đồng thì phủ nhận việc này: Không có chuyện nữ sinh tự tử vì không có giấy báo thi. Ở đây.

Tóm lại, tự tử là có thật, liên quan đến kỳ thi, còn có phải tại giấy báo thi hay không, và Sở GD tỉnh Lâm Đồng hoặc trường ĐH Đà Lạt có lỗi gì không, hay chỉ là nạn nhân và gia đình có lỗi, tôi không dám có ý kiến gì thêm. Chỉ biết, dù sao thì cũng tại kỳ thi!

Thôi không nói chuyện chết chóc thảm thương nữa. Hãy đọc tin này xem:

7. Mới chỉ học hết lớp 11 vẫn dự thi đại học trót lọt. Ở đây. Tin này nên hiểu thế nào nhỉ? Thí sinh này có tài, nên khuyến khích? Học sinh này kém nghiêm túc, vi phạm quy chế thi, nên khiển trách?

Riêng tôi, thì tôi thấy nó lại là một dấu hiệu khác của việc Bộ không nên can thiệp quá sâu vào mọi việc chuyên môn, mà nên để cho tất cả mọi người phát huy năng lực sáng tạo của mình. Một em hết lớp 11 mà có thể tham dự kỳ thi đại học và thành công, ở các nước tiên tiến cũng chỉ là chuyện bình thường mà thôi. Không tin, cứ hỏi những ai có con đi du học ở Úc, ở Mỹ chẳng hạn.

8. Kỳ thi dù sao thì cũng đã qua rồi. Sĩ tử kéo nhau lên kinh ứng thí xong thì lại lũ lượt về quê. Thí sinh đổ về quê trong trời nắng gắt. Ở đây. Ừ thì miền Nam chỉ hai mùa mưa nắng, thì phải về trong nắng gắt chứ sao? Nếu không nắng, thì mưa, lại bảo thí sinh về trong trời mưa tầm tã ư?

Điểm sơ sơ qua các tin về bối cảnh kỳ thi thôi. Tôi không dám đi sâu vào vấn đề kỹ thuật ra đề, tổ chức thi, chấm điểm vv. Nhưng vẫn miên man nghĩ, thi tuyển sinh như vậy, liệu có phải là một phương thức tối ưu để chọn người vào đại học?

Câu hỏi này, có lẽ phải chờ câu trả lời từ các nhà làm chính sách giáo dục quốc gia!

Monday, June 28, 2010

"Nên giao quyền tuyển sinh cho các trường"

Đó là cái tựa do báo Tuổi trẻ đặt cho cuộc trao đổi giữa PV Minh Giảng và tôi vào hôm cuối tuần qua, mà nội dung đã được đưa lên báo hôm nay 28/6/2010, tại đây.

Quanh vấn đề tuyển sinh đại học, thật ra tôi còn một số ý kiến nữa, cũng đã được trao dổi trong cuộc "gặp gỡ đầu tuần" giữa tôi và báo, nhưng đã được lược đi vì nội dung bài PV hôm nay cũng đã khá dài. Tuy nhiên, nếu ai quan tâm sâu đến vấn đề này thì có lẽ cũng sẽ quan tâm để đọc.

Nên tôi sẽ đưa nội dung đầy đủ mà tôi đã trả lời lên đây khi có thêm một chút thời gian. Trong khi chờ đợi, mong mọi người đọc bài trên báo Tuổi trẻ và trao đổi ở đây nhé. Vì rõ ràng là VN đang rất cần cải cách triệt để cách thi cử của mình, trong đó có kỳ thi tuyển sinh đại học.

Cải cách, để kết quả của các kỳ thi ngoài chức năng "gác cổng" (gate-keeping, tức cho phép ai đi qua, ai bị kẹt lại), còn làm được chức năng quan trọng hơn nhiều, đó là chỉ báo về chất lượng và hiệu quả thật của việc dạy và học của nền giáo dục của ta.

Để từ đó, các chính sách đầu tư, phân bổ kinh phí, ưu tiên cho các đối tượng, và cả tuyển dụng bổ nhiệm nhân sự vv trong các cơ quan công quyền và khu vực sự nghiệp công lập sẽ là những chính sách bám sát với thực tế, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển, chứ không phải những chính sách xa rời thực tế và đôi khi còn cản trở sự phát triển xã hội như hiện nay.

Có ai đó đã nói, chất lượng của một nền giáo dục không thể nào vượt qua được chất lượng của những người làm ra nó là các giáo viên. Còn tôi, mượn ý trên, tôi cũng muốn nói rằng chất lượng phát triển bền vững của một xã hội không thể nào vượt qua được chất lượng của ngành công nghiệp tạo ra sự phát triển bền vững ấy, đó là ngành "công nghiệp" giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học.

Ngành công nghiệp ấy có thể nói là bắt đầu bằng khâu tuyển sinh, thật thế!

Tuesday, April 27, 2010

Tuyển sinh đại học và chất lượng giáo dục phổ thông

Một "mùa tuyển sinh" lại đang đến, với tất cả những căng thẳng, lo âu của học sinh và phụ huynh. Và sự vào cuộc của toàn xã hội: báo chí truyền thông ("ngày hội" (?) tư vấn tuyển sinh rầm rộ trên cả nước), y tế-dược phẩm (ăn uống ra sao để giữ sức khỏe, uống thuốc gì để giúp bổ não, tăng trí nhớ?), giao thông vận tải, in ấn xuất bản (tài liệu ôn tập, hướng dẫn về tuyển sinh, rồi "Những điều cần biết..."), và đặc biệt là công nghệ luyện thi (đoán đề, giải đề thi, luyện thi bảo đảm...).

Thật mệt mỏi, và quả là một sự lãng phí thời gian, công sức, và tiền bạc của toàn xã hội. Vì mặc dù thi cử cạnh tranh như thế, nhưng số thí sinh ít ỏi vượt qua được kỳ thi để vào đại học lại phải đương đầu với hàng loạt vấn đề khác, và cuối cùng vẫn có thể phải đương đầu với nạn thất nghiệp.

Rõ ràng là cần phải thay đổi cách thi cử hiện nay. Điều này công luận cũng như các trí thức trong nước đã lên tiếng nhiều lần, nhưng cho đến nay mọi việc hình như vẫn đâu lại hoàn đó, mèo lại hoàn mèo. Tại sao thế nhỉ? Phải chăng các lãnh đạo ngành giáo dục của ta tin rằng cách làm hiện nay vẫn là cách tốt nhất?

Nếu vậy, xin hãy nhìn sang một nước láng giềng có rất nhiều điểm chung với Việt Nam, xem họ đang nghĩ gì, nói gì nhé. Trích dẫn dưới đây được lấy từ trang ChinaDaily (Trung Hoa Nhật báo) ngày 9/4/2020 vừa qua, ở đây:

[...] [T]o ensure fairness in selecting the best students, university administrators are forced to rely on examinations. [...]As a result of the reliance on exams, secondary education in China is entirely focused on exam preparations.

[...] [S]ince Chinese secondary teachers focus on exam preparations, they do not have the time to encourage students to be creative, to develop their individual interests or to work on analytical skills that are not directly relevant to the exams. [...] The exam-centered nature of Chinese secondary education lets down the most elite as well as the most mediocre of Chinese students.

Để đảm bảo công bằng trong việc chọn những học sinh tốt nhất, các trường đại học buộc phải dựa vào các kỳ thi. Hậu quả của việc này là việc học ở bậc trung học chỉ chăm chăm vào việc chuẩn bị cho các kỳ thi.

Vì giáo viên trung học chỉ chú trọng việc chuẩn bị cho các kỳ thi, họ không còn thời gian để khuyến khích học sinh sáng tạo, phát triển những mối quan tâm riêng hoặc chú trọng những kỹ năng phân tích mà không có liên quan trực tiếp đến các kỳ thi. Đặc điểm này của giáo dục phổ thông của Trung Quốc đã loại bỏ không chỉ những học sinh yếu nhất mà còn loại cả những học sinh tốt nhất.

Câu hỏi đặt ra ở đây là, với một nền giáo dục phổ thông như vậy, liệu các trường đại học có được chất liệu đầu vào đủ tốt (tức các sinh viên được tuyển vào để học) để đào tạo ra thành người tài cho sự phát triển của đất nước hay không?

Lời kết luận dường như đã nằm sẵn trong tựa của bài viết vừa được trích dẫn bên trên là "True education reform still elusive", Cải cách giáo dục thực sự vẫn rất xa vời.

Quay lại Việt Nam, với một mùa thi mới, nhưng cách làm thì vẫn cũ. Chúng ta có cần suy nghĩ gì không?

Thursday, March 18, 2010

Tin tốt lành: Trung tâm luyện thi đại học đang ế ẩm!

Tin đó ở đây.

Tại sao tôi lại xem đó là tin tốt lành? Vì lâu nay tôi vẫn là người ra sức chống việc luyện thi, do tôi nghĩ nó là một phần của bệnh thành tích và là một trong nhiều nguyên nhân của sự xuống cấp trong chất lượng giáo dục đại học hiện nay.

Tôi biết sẽ có nhiều người phản ứng với tôi khi đọc cái tựa này, đặc biệt là các trung tâm luyện thi đại học. Tôi cũng biết, việc luyện thi - examination coaching - không phải chỉ có ở VN, mà đâu đâu cũng có, kể cả Mỹ. Mà các trung tâm đó cũng có vai trò của nó, chứ không phải là không có vai trò gì (vì nếu không có vai trò thì chắc chắn là nó không tồn tại được, đơn giản vậy thôi!)

Thế thì tại sao nó lại là tin tốt lành? Vì ở VN, các trung tâm luyện thi đại học đã mọc lên quá nhiều trong thời gian vừa qua. Cùng một lúc với việc các trường đại học mọc lên như nấm, bất chấp chất lượng, bất chấp tri thức, bất chấp các chuẩn mực đạo đức trong khoa học.

Kết quả rất rõ ràng của sự phát triển ồ ạt về số lượng nói trên là sự tăng vọt số lượng của số sinh viên tính trên một vạn dân, số người có bằng kỹ sư, cử nhân, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư, và các các bộ có quyền chức với bằng cấp cao vòi vọi.

Cùng với nó, và chắc chắn là một phần hệ quả của nó, là sự xuống cấp về đạo đức xã hội, sự cạn kiệt, phá hoại môi trường sống, sự sa mạc hóa của đời sống văn hóa, sự im lặng như bầy cừu của trí thức trước những nỗi bất công và tệ nạn của xã hội.

Bao trùm lên hết, gần đây, là một không khí ngột ngạt về tinh thần, đôi khi thấy giống như giữa đêm dài trung cổ.

Tôi có khái quát hóa một cách ... vô tội vạ không? Tôi nghĩ rằng không. Vì tôi sống và tham gia sâu sát, làm việc suốt đời trong hệ thống giáo dục này, tự hào về nó, trăn trở vì nó, buồn vui vì nó, đau đớn vì nó, và ... sắp đến chỗ dửng dưng trước nó (sự dửng dưng của một người biết rằng mình bất lực!).

Nên hôm nay thấy tin này, bỗng thấy mừng: phải chăng đây là biểu hiện của sự tỉnh ngộ?

Viết vội trong cơ quan trong giờ làm việc; tôi sẽ trở lại vấn đề này sau, khi có thời gian. Nhưng đây quả thật là một trong rất ít những tin mà tôi cho là tốt trong những ngày qua.

Tuesday, March 2, 2010

Không ra đề thi có nhiều cách giải?

Entry này ghi vội để giúp tôi khỏi quên một mẩu tin đáng chú ý trên báo Tuổi trẻ: Không ra đề thi có nhiều cách giải. Ở đây.

Và một cảm nghĩ nhanh: Hình như nền giáo dục của ta ngày càng đi ngược với xu hướng của thế giới? Người ta thì khuyến khích sáng tạo, dân chủ hóa quá trình giáo dục bằng cách trao quyền cho thầy và cho trò. Thậm chí đi đến cả việc cá thể hóa quá trình giáo dục.

Còn mình thì ngày càng làm theo kiểu "nhất thể hóa" mọi thứ. Một bộ giáo trình chung. Một chương trình khung cho mỗi ngành. Một bộ tiêu chuẩn kiểm định cho mọi loại trường đại học, cao đẳng thuộc đủ loại ngành nghề khác nhau. Một kỳ thi chung. Rồi bây giờ, chỉ làm những đề thi có một cách giải. Để luyện thi cho dễ chăng, có lẽ thế?

Triết lý của tất cả việc này là gì nhỉ? Có ai trả lời giúp tôi được không?

Mà nếu VN cứ có triết lý riêng không giống ai trên thế giới như thế này, thì có lẽ Bộ Giáo dục và Đào tạo nên dừng ngay kế hoạch đào tạo tiến sĩ ở nước ngoài ngay đi thôi. Vì học về làm sao mà áp dụng được? Ví dụ như tôi, học đúng ngành đo lường đánh giá trong giáo dục đây. Mười mấy năm rồi, sắp về hưu, những gì tôi học được chắc cũng đã cũ nhiều rồi, thế mà vẫn còn quá mới đối với VN thì phải?

Chẳng lẽ các entry của tôi trên blog này cứ phải nhắc mãi câu này làm kết luận sao?

Một câu hỏi lớn không lời đáp ...

Thursday, February 18, 2010

Cải cách thi cử tại VN: Bao giờ cho đến tháng 10?

Sáng nay, đọc tin trên trang trang web của báo Khoa học và Phát triển, thấy một mẩu tin đã lâu rồi nhưng hôm nay mới đọc, là "Năm 2010 vẫn giữ nguyên 2 kỳ thi". Ở đây.

Tin này không có gì mới, vì ai cũng biết rồi. Tất nhiên là tôi cũng biết. Và đồng tình với quyết định nói trên, vì trong điều kiện chuẩn bị chưa tới đâu như thế này, thì tốt nhất là không nên thay đổi lớn, mà cần cải thiện dần, làm tốt hơn những điều đang làm, make incremental changes. Đó là giải pháp duy nhất đúng.

Nhưng thắc mắc, sao ở VN mọi việc lại có thể chậm đến thế? Tôi nhớ có ai đó đã nói, VN phát triển theo hình sine? Tại sao thế nhỉ?

Vì cứ lấy chính lịch sử của mình ra mà xét, thì việc cải cách thi cử ở VN đã được đặt ra cho đến nay tối thiểu là 15 năm rồi! Lúc ấy, khoảng đầu thập niên 1990, tôi đang là một giáo viên "quèn" ở Khoa Ngữ văn nước ngoài của trường Đại học Tổng hợp TP HCM. Lúc ấy, công cuộc cải cách giáo dục ĐH ở VN đang diễn ra mạnh mẽ.

Lúc ấy, Bộ trưởng Giáo dục là GS Trần Hồng Quân, còn Vụ trưởng Vụ Đại học là GS Lâm Quang Thiệp. Người ta rất nói nhiều đến việc cải cách tuyển sinh, rồi áp dụng hình thức thi trắc nghiệm như một hình thức thi cử tiên tiến, hiện đại, tiết kiệm, chính xác, khoa học. Lúc ấy, TS Nguyễn An Ninh (nay là Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục) còn đang ở ĐH Đà Lạt, và sau đó là nơi đi đầu thử nghiệm áp dụng kỳ thi tuyển sinh bằng trắc nghiệm vv.

Nên "con bé" này (well, cũng không bé lắm nhưng ở tuổi ấy, lại là phụ nữ, thì ở VN tôi chẳng là cái gì cả, chỉ được xem là một "con bé" thôi, biết gì mà nói!) mới "bày đặt" đòi đi học về ngành "đo lường đánh giá trong giáo dục" (tiếng Anh là Educational Measurement and Evaluation), để hy vọng khi về sẽ đóng góp vào việc cải cách thi cử ở VN (utopian, mà bây giờ mới nhận ra!).

Vậy, từ lúc tôi bắt đầu đi (1993) đến nay là gần 20 năm rồi! Còn nếu tính từ lúc về, tức cuối 1996, thì đến nay cũng xấp xỉ 15 năm!

Và công cuộc cải cách thi cử ỏ VN dường như vẫn còn xa? Mà tôi thì sắp về hưu mất rồi, thật thế!

Nên mới hỏi, bao giờ cho đến tháng 10?

Nhân tiện, cuối năm 2008, khi nghĩ rằng năm 2009 là năm cuối cùng còn 2 kỳ thi (vì lúc ấy chủ trương là như thế), nên Trung tâm của tôi có tổ chức một hội thảo lớn về đổi mới tuyển sinh, và tôi có viết bài này để đóng góp những giải pháp về việc đổi mới tuyển sinh cho Bộ Giáo dục. Nay đưa lại lên đây, vì thấy ý tưởng vẫn còn dùng được (vì mọi việc đã thay đổi gì mấy đâu).

Các bài viết trong hội thảo ấy cũng đã được in lại thành sách, cuối năm 2009. Trong đó có nhiều bài viết khá tốt, đặc biệt là của GS Lâm Quang Thiệp. Ai quan tâm, xin để lại comments có địa chỉ gửi thư, tôi sẽ rất hân hạnh gửi tặng sách (vì sách in ra để làm gì nếu không để phổ biến cho những người quan tâm?)

Vài giòng tản mạn, suy nghĩ lăng nhăng đầu năm về những vấn đề chuyên môn của ngành. Vài hôm nữa là lại đi làm rồi, một năm mới vất vả (năm cọp mà!) đang chờ đón, chắc là thế ...

Sunday, December 21, 2008

Tin 16: Theo Tuổi Trẻ

http://www.saigonnet.vn/sncdetailnews.aspx?Item=57251&Kind=11