Showing posts with label hied reform. Show all posts
Showing posts with label hied reform. Show all posts

Friday, May 6, 2011

Nhân góp ý dự thảo Luật giáo dục đại học Việt Nam, bàn về “tự chủ đại học”

Bài viết này của tôi vừa được đăng trên Tạp chí Tia Sáng số ngày 5/5/2011, có thể đã được biên tập lại chút ít. Chưa thấy đưa lên trang Tia Sáng online. Dưới đây xin đăng lại bài viết nguyên bản của tôi để chia sẻ đến bạn bè và những người hay đọc blog này.

Cập nhật ngày 9/5/2011
Bài đăng trên Tạp chí Tia Sáng nay đã được đưa lên phiên bản online, tại đây.

--------------
Trong những ngày qua, báo chí Việt Nam đã cho đăng tải ý kiến của các cá nhân, tổ chức góp ý cho bản dự thảo Luật Giáo dục đại học đầu tiên của Việt Nam. Những ý kiến này rất đa dạng và tập trung vào các khía cạnh khác nhau của bản dự thảo, nhưng hầu hết đều thống nhất ở một điểm: dự thảo Luật Giáo dục đại học hiện nay chưa đủ mạnh để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đại học trong thời gian tới. Một vấn đề được xem là quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay là quyền tự chủ của các trường đại học, tiếc thay, lại chưa được đề cập đến một cách đầy đủ trong bản dự thảo đang được góp ý.

Tự chủ đại học: từ “nhà nước kiểm soát” đến “nhà nước giám sát”
Trao quyền tự chủ cho các trường đại học là điều không có gì mới ở các nước phương tây, nhưng cũng không phải là một hiện tượng phổ biến ở mọi nơi. Theo báo cáo về quản trị đại học trên thế giới của World Bank năm 2008, hiện vẫn đang tồn tại 4 mô hình quản trị đại học với các mức độ tự chủ khác nhau, từ mức độ hoàn toàn không tự chủ là mô hình nhà nước kiểm soát (state control) ở Malaysia, đến các mô hình tự chủ ngày càng nhiều là bán tự chủ (semi-autonomous) ở Pháp và New Zealand, mô hình bán độc lập (semi-independent) ở Singapore, và mô hình độc lập (independent) ở Anh, Úc [1]. Mặt khác, cũng theo báo cáo này, xu hướng chung trên toàn cầu hiện nay là thay đổi từ mô hình nhà nước kiểm soát sang các mô hình có mức độ tự chủ cao hơn – một sự thay đổi có tên gọi là sự chuyển dịch từ mô hình nhà nước kiểm soát (state control) sang mô hình nhà nước giám sát (state supervision) [2].

Chuyển đổi từ mô hình nhà nước kiểm soát sang các mô hình tự chủ là điều không dễ dàng. Đối với những quốc gia đang phát triển, có hai lý do thường được đưa ra để giải thích cho sự duy trì vai trò tuyệt đối của nhà nước; đó là (1) yêu cầu kiểm soát chất lượng, và (2) mục tiêu công bằng xã hội. Tuy nhiên, trước những thay đổi lớn trong bối cảnh hiện nay như sự gia tăng nhu cầu học tập ở bậc đại học của người học, sự phát triển cả về số lượng lẫn loại hình của các trường đại học-cao đẳng, đòi hỏi ngày càng cao của thị trường nhân lực, cũng như sự phát triển vũ bão của các ngành khoa học-kỹ thuật, thì phương pháp quản lý bằng sự kiểm soát tuyệt đối của nhà nước ngày càng tỏ ra kém hữu hiệu. Cũng vậy, không thể tạo ra sự công bằng thông qua việc áp dụng cùng một phương pháp quản lý cho tất cả mọi trường đại học khi chúng có các sứ mạng, điều kiện, và bối cảnh hoạt động khác xa nhau. Vì vậy, việc tiếp tục duy trì mô hình nhà nước kiểm soát sẽ chỉ có tác dụng cản trở sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học của mỗi quốc gia.

Khi xem xét các dự án cải cách giáo dục được tiến hành trên thế giới trong thời gian vừa qua, trong đó bao gồm cả việc xây dựng mới và ban hành luật giáo dục đại học lần đầu tiên, hoặc điều chỉnh bổ sung các đạo luật mới cho giáo dục đại học, có thể thấy vấn đề tự chủ luôn được xem là một trong những vấn đề cốt lõi nhất cần giải quyết trước khi có thể quyết định những khía cạnh cụ thể khác [3]. Với việc xây dựng luật giáo dục đại học lần đầu tiên tại Việt Nam hiện nay, chúng ta đang có cơ hội hiếm có để tạo ra một thiết kế tổng quát có tính hội nhập và hướng đến sự phát triển cho nền giáo dục đại học của Việt Nam trong tương lai. Việc bỏ qua không đề cập đến vấn đề tự chủ đại học trong bản dự thảo luật giáo dục đại học hiện nay quả là một thiếu sót không nên có.

“Danh xưng” của các cơ sở giáo dục và các mức độ tự chủ
Nên trao quyền tự chủ cho các trường đại học của Việt Nam như thế nào, khi hiện nay chúng ta đã có hơn 400 trường đại học và cao đẳng với các đặc điểm rất khác nhau? Những trường này thuộc các địa phương, các ngành nghề, các loại hình trường khác nhau, với bề dày lịch sử và điều kiện hoạt động vô cùng đa dạng đến độ có thể không có bất kỳ đặc điểm gì chung, vậy liệu có thể giao quyền tự chủ cho tất cả các trường này hay chăng? Thực ra, việc trao quyền tự chủ cho các trường không nhất thiết phải xảy ra đồng đều trong toàn bộ một hệ thống giáo dục đại học. Trên thế giới hiện nay, có thể thấy trong cùng một quốc gia vẫn tồn tại nhiều hơn một mô hình quản trị được áp dụng. Ngay cả ở những nước phát triển, nơi có nhiều trường được hoàn toàn độc lập (mô hình 4), vẫn có thể có những trường bị kiểm soát hoàn toàn (mô hình 1).

Mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục đại học ở một số nước trên thế giới được biểu hiện rõ ràng thông qua tên gọi của từng cơ sở giáo dục đại học, trong đó không phải bất kỳ một trường nào có đào tạo cấp bằng cử nhân trở lên cũng có thể được gọi là “university” (dịch sang tiếng Việt là “đại học”), mà còn có nhiều danh xưng khác như “college” , “academy” , “institute” – những từ này hiện khó dịch sang tiếng Việt một cách chính xác do chúng ta chưa phân biệt rõ các loại hình cơ sở giáo dục đại học khác nhau. Ở nhiều nước có nền giáo dục đại học phát triển cao, việc cho phép một cơ sở giáo dục được công nhận “danh xưng đại học” (tạm dịch cụm từ “university status” trong tiếng Anh) là một quy định rất chặt chẽ ở mức độ cao nhất là mức độ lập pháp, có nghĩa là được ghi rõ trong luật giáo dục. Và một khi một trường đã được hệ thống giáo dục đại học của một nước công nhận “danh xưng đại học” thì trường đó cũng đồng thời được trao cho mức độ tự chủ cao nhất trong hệ thống đó.

“Danh xưng” của một cơ sở giáo dục đại học vì thế không phải là một việc làm tùy tiện do mỗi cơ sở giáo dục tự quyết định, mà phải được quy định chặt chẽ bằng luật, vì sự khác biệt về danh xưng của trường này so với trường khác có liên quan đến sự khác biệt về mức độ tự chủ và quyền hạn của một trường trong mối quan hệ với nhà nước. Điều này cũng cho phép một hệ thống giáo dục đại học cung cấp thông tin về đẳng cấp và năng lực của trường đó cho các đối tượng bên ngoài. Do hiện nay điều này còn chưa được quan tâm đúng mức ở Việt Nam, nên việc xây dựng Luật giáo dục đại học tại Việt Nam vào lúc này chính là cơ hội để xác định rõ ở mức độ cao nhất (mức độ lập pháp), thế nào là một cơ sở giáo dục đáng được công nhận “danh xưng đại học”. Việc xác định các loại danh xưng cho một cơ sở giáo dục đại học chính là một biện pháp quan trọng để giải quyết bài toán liên quan đến “tự chủ đại học” đã được thảo luận trong những phần trên.

Quay trở lại việc áp dụng các mức độ tự chủ khác nhau tại các loại trường khác nhau (với những danh xưng khác nhau), có thể nói đây là biện pháp duy nhất khả thi để có thể giải quyết bài toán lớn của giáo dục đại học ngày nay, đó là: Làm thế nào vừa mở rộng tiếp cận giáo dục đại học cho mọi đối tượng nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng để đạt được mục tiêu phát triển nhân lực và tính cạnh tranh quốc gia. Khi giao quyền tự chủ cho những trường đã có đủ điều kiện về năng lực, nhà nước sẽ có nhiều điều kiện hơn để có thể kiểm soát chặt chẽ và hữu hiệu những trường chưa có đủ điều kiện để tạo ra chất lượng. Trong khi đó, những trường được tự chủ cũng sẽ có điều kiện phát huy tính sáng tạo của mình để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường nhân lực, và tồn tại thành công trước thách thức của sự cạnh tranh từ các trường đại học trên thế giới. Nói cách khác, nó giải quyết cả hai vấn đề chất lượng và công bằng đã nêu ở phần trên.

Góp ý cho Dự thảo Luật giáo dục đại học Việt Nam về vấn đề tự chủ
Để Luật giáo dục đại học của Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu như phát biểu của GS Đào Trọng Thi, chủ nhiệm Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội trong bài viết trên báo Tuổi trẻ ngày 21/4/2011, là “phải giải quyết được hai vấn đề lớn. Một là chất lượng đào tạo - vấn đề đang gây bức xúc lớn trong xã hội, hai là giải quyết vấn đề công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục ĐH”, rõ ràng vấn đề tự chủ đại học (ở các mức độ khác nhau cho các loại hình trường khác nhau) phải được đưa vào luật. Nhưng đưa như thế nào? Chúng tôi xin đề nghị:

1. Trong Chương 1, “Những quy định chung”, cần có thêm phần giải thích ý nghĩa và các đặc điểm phân biệt của các “danh xưng” hiện đang được sử dụng tại Việt Nam để chỉ các loại hình trường khác nhau như “đại học” (trong các cụm từ “đại học quốc gia”, “đại học vùng”), “trường đại học”, “trường thành viên” (“học viện”, “trường cao đẳng”, “trường cao đẳng nghề”, vv. Đồng thời, cần xác định các từ tương đương của các từ này trong tiếng Anh; đây cũng sẽ là căn cứ để dịch các văn bằng, chứng chỉ của Việt Nam ra tiếng nước ngoài một cách chính xác và thống nhất.
2. Trong Chương 2, “Nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ sở giáo dục”, cần có thêm những điều liên quan các danh xưng của một cơ sở giáo dục, phân biệt rõ những đặc điểm của một cơ sở giáo dục có thể được công nhận “danh xưng đại học” (university status) với những loại hình trường khác thấp hơn về quy mô, về trình độ đào tạo, hoặc về năng lực triển khai các hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Đồng thời với việc xác định danh xưng của các trường, cần đưa thêm các điều khoản liên quan đến các mức độ tự chủ của mỗi loại hình trường khác nhau. Đặc biệt, rất cần làm rõ mô hình “đại học quốc gia”, một loại mô hình thí điểm về tính tự chủ cao trong giáo dục đại học của Việt Nam, tồn tại gần hai thập niên nay với những thành tựu và kinh nghiệm có thể chia sẻ cho toàn bộ hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam, nhưng đến nay vẫn hoàn toàn chưa được nhắc đến trong luật giáo dục.

Trước khi kết thúc, xin trích dịch một vài phần trong các điều khoản của Luật giáo dục đại học Ba Lan 2005, có liên quan đến hai góp ý của chúng tôi trên đây để mọi người tham khảo:

Điều 3
1. Danh xưng “đại học” (university) được sử dụng để gọi một cơ sở giáo dục có cơ cấu tổ chức phù hợp và đủ điều kiện để đào tạo cấp bằng tiến sĩ cho ít nhất là 12 chuyên ngành, trong đó có tối thiểu 2 chuyên ngành về các ngành khoa học nhân văn, khoa học xã hội hoặc thần học, toán học, vật lý, khoa học công trình và công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học kinh tế, luật học.
[…]
3. Danh xưng “đại học kỹ thuật” (technical university) để gọi một cơ sở giáo dục có cơ cấu tổ chức phù hợp và đủ điều kiện để đào tạo cấp bằng tiến sĩ cho ít nhất 12 chuyên ngành, trong đó có ít nhất 8 chuyên ngành về khoa học công nghệ (technological sciences) và công trình (engineering).
4. Danh xưng “học viện”(academy) được sử dụng để gọi một cơ sở giáo dục có cơ cấu tổ chức phù hợp và đủ điều kiện đào tạo cấp bằng tiến sĩ cho ít nhất hai ngành học (disciplines).
Điều 4
1. Các cơ sở giáo dục đại học được quyền tự chủ trong mọi mặt hoạt động của mình, nhưng phải tuân thủ những quy định nêu trong đạo luật (act) này.
2. Mọi hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học được hướng dẫn bởi các nguyên tắc tôn trọng tự do trong giảng dạy, tự do trong nghiên cứu khoa học, và tự do trong sáng tạo nghệ thuật.
3. Các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương chỉ có quyền ra quyết định liên quan đến các cơ sở giáo dục đại học trong những trường hợp được các đạo luật cụ thể của Quốc hội cho phép.
[…]
Điều 6
1. Các trường đại học có các quyền hạn sau:
(i) ra quyết định về các điều kiện tuyển sinh, kể cả số lượng sinh viên sẽ tuyển, trừ trường hợp tuyển sinh cho ngành Y;
(ii) lập các kế hoạch học tập và chương trình giảng dạy, theo các tiêu chuẩn được quy định tại Điều 9, đoạn 2 và 3 dưới đây;
(iii) kiểm tra kiến thức và kỹ năng của sinh viên;
(iv) cấp phát văn bằng chứng chỉ phù hợp khi sinh viên đã hoàn tất việc học ở các trình độ đào tạo chuyên nghiệp, tiến sĩ, cũng như các chứng chỉ sau đại học và các chứng chỉ đào tạo bồi dưỡng khác.
[…] [4]
--------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo

1. Fielden, J. (2008) Global Trends in University Governance. Education Working Paper Series, number 9. Washington, D. C.: World Bank. Tải xuống ngày 22/4/2011 từ trang thông tin điện tử của World Bank. Địa chỉ truy cập: http://siteresources.worldbank.org/EDUCATION/Resources/278200-1099079877269/547664-1099079956815/Global_Trends_University_Governance_webversion.pdf

2. Act of 27 July 2005. Law on Higher Education Law. Tải xuống ngày 22/4/2011 từ trang thông tin điện tử của Hiệp hội hiệu trưởng các trường đại học Ba Lan (KRASP). Địa chỉ truy cập: http://www.krasp.org.pl/en/documents/documents

Các chú dẫn:
[1] Fielden 2008, trang 13
[2] Fielden 2008, trang 15
[3] Fielden 2008, trang 18
[4] Poland’s Law on Higher Education, trang 3-4

Wednesday, March 30, 2011

"Học đòi theo mô hình Mỹ ư? Hãy cẩn thận đấy!"

Tựa của entry này là tựa một bài viết tiếng Anh của Lloyd Armstrong - tựa gốc là "Coveting the US model? Be careful what you wish for" - được đăng trên Guardian của Anh ngày 24/3/2011 vừa qua. Có thể tìm đọc bài gốc ở đây.

Trước hết, xin nói về Armstrong. Ông là tác giả của một trang blog mà tôi rất hay đọc, chuyên viết về giáo dục đại học Mỹ, là trang Changing Higher Education, tạm dịch là "Đổi mới giáo dục đại học", có thể tìm thấy ở đây. Theo lời tự giới thiệu trên blog của mình, ông nguyên là giáo sư của khoa giáo dục trường University of Southern California, và đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong trường, trong đó cao nhất là chức phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo. Lý lịch khoa học của ông thật đáng nể: tốt nghiệp cử nhân tại MIT, tiến sĩ tại UC Berkeley, postdoc tại Lawrence Berkeley Laboratory, và giảng dạy rồi trở thành giáo sư tại John Hopkins. Như vậy, rõ ràng là những kinh nghiệm và phán đoán của ông về những chỗ nhược của đại học Mỹ hẳn không thể bị xem là thiếu sót hoặc phiến diện được, vì hơn ai hết chính ông phải là người hiểu rõ nhất về những cái hay, cái đẹp của nền giáo dục tinh hoa của Mỹ.

Thế tại sao ông lại viết bài chê đại học Mỹ quá vậy, như có thể thấy qua cái tựa của bài viết mà tôi đang giới thiệu? Trước hết, cần khẳng định rằng ông hoàn toàn không phủ nhận những thành tựu của nền giáo dục Mỹ. Ngay trong phần mở đầu bài viết của mình ông đã dành đến 2 đoạn không ngắn dể điểm qua những thành tựu của giáo dục đại học Mỹ và nguyên nhân của những thành tựu đó.

Nhưng ... - vâng, chữ nhưng đáng ghét - giáo dục Mỹ hiện nay đang phải đối mặt với khá nhiều vấn đề, mà nguyên nhân cơ bản của nó, theo Armstrong, chính là vì chính phủ đang cắt giảm nguồn ngân sách cấp phát cho các trường đại học, khiến cho quá trình "privatization" tức tư nhân hóa trong giáo dục đại học đang diễn ra mạnh mẽ, với những hệ quả đương nhiên của nó.

(Mở ngoặc nói thêm: một quá trình tương tự như thế cũng đang diễn ra ở VN; tuy nhiên, ở VN thì người ta không gọi nó là "tư nhân hóa" mà lại gọi bằng cách ngược lại là "xã hội hóa", và dịch nó ra thành "socialization". Thế nhưng, socialization trong tiếng Anh-Mỹ thì có nghĩa là nhà nước sử dụng thuế của dân để hỗ trợ cho những dịch vụ công nào đó - đại khái thế, tôi viết chưa chính xác và sẵn sàng nhận những trao đổi thêm. Chính vì vậy mà mới có chuyện khôi hài sau đây mà tôi mới nghe một người bạn kể lại: Khi một giáo sư Mỹ đến thăm một trường đại học của VN, có đi tham quan đến khu ký túc xá "xã hội hóa" theo nghĩa của VN, tức là cho tư nhân làm, thì người bạn của tôi đã sử dụng từ "socialization", và vị giáo sư kia hoàn toàn không hiểu! Khi người bạn tôi giải thích nó là như thế, như thế, thì ông rất buồn cười, và sau đó khi trên dường về, đi ngang qua khu KTX mà ông đã được giới thiệu, ông đã rất thú vị chỉ vào khu nhà ấy mà nói đại khái "kia, khu nhà "xã hội hóa" của các bạn đây rồi!".

Tóm lại, đối với tai một người Mỹ thì cách gọi tư nhân hóa thành ra xã hội hóa của VN nghe có vẻ rất ... mỉa mai, thậm chí dối trá, vì ở Mỹ khi nói "socialization" thì người ta nghĩ đến việc nhà nước sử dụng ngân sách để hỗ trợ cho dân chúng (theo kiểu xã hội chủ nghĩa mà lại). Trong khi đó, ngay trên một đất nước xã hội chủ nghĩa như chúng ta thì xã hội hóa lại có nghĩa hoàn toàn ngược lại: nhà nước kiên định với CNXH là VN sẽ không lo nữa vì không đủ sức, thôi thì toàn xã hội, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, và cả cuốc xẻng, gậy gộc nữa, chúng ta cùng nhau lo (tiền) cho giáo dục theo kiểu của mình, và cách dễ nhất là dùng user-pay principle!)

Tôi phải đi làm, nên không viết thêm được nữa, tạm ngưng ở đây, hy vọng tối về có thì giờ viết tiếp. Nhưng các bạn nên đọc bài gốc đi, rất hay, đặc biệt là những nhà làm chính sách, những nhà lãnh đạo giáo dục, và cả những nhà nghiên cứu nữa, vì khi đưa ra những lời tham mưu mà không cân nhắc mọi khía cạnh của vấn đề thì cũng giống như đưa một tấm bản đồ sai cho tài xế, và sinh mạng của bao nhiêu hành khách đều nằm trong tay người tài xế lái xe với tấm bản đồ sai đó. Vô cùng nguy hiểm, phải không các bạn?

Saturday, March 5, 2011

"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (3)

7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao

Hoạt động thể thao sôi nổi của các trường đại học cũng là một trong những nét đặc thù tạo nên sự “hấp dẫn” của nền đại học Mỹ. Tuy nhiên, theo Daniel de Vise thì hoạt động này ngày càng được tổ chức giống hoạt động thể thao nhà nghề có tính thương mại, chủ yếu nhằm mục đích quảng cáo và xây dựng thương hiệu đối với công chúng, hơn là nhằm mục đích rèn luyện thân thể và tinh thần thượng võ cho các sinh viên, điều mà các trường đại học lẽ ra phải làm.

Chi phí cho các hoạt động thể thao nhà nghề là rất tốn kém, và nguồn kinh phí để tổ chức các hoạt động này đương nhiên được rút từ nguồn kinh phí chung của trường. Nói cách khác, mặc dù các huấn luyện viên và vận động viên đội tuyển của các trường đại học được trả lương cao ngất ngưởng như trong thể thao nhà nghề, thì chi phí cho các hoạt động này lại không phải tự trang trải (ví dụ, thông qua bán vé) mà được nhà trường bao cấp, hỗ trợ từ nguồn ngân sách được cấp và/hoặc từ học phí của người học. Chẳng trách nào học phí đại học của Mỹ cứ liên tục tăng trong suốt một thời gian dài và dường như chưa có ý định đứng lại. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái của Mỹ, rõ ràng là không thể tiếp tục mức độ hỗ trợ cho thể thao tại các trường đại học như hiện nay.

8. Xem xét lại việc tổ chức phụ đạo ở các trường cao đẳng cộng đồng

Cao đẳng cộng đồng là một đặc trưng nổi bật khác mà nền giáo dục Mỹ rất tự hào và được nhiều quốc gia trên thế giới học tập, trong đó có Việt Nam. Cùng với chính sách tuyển sinh mở (gần như ai cũng có thể vào học mà không phải trải qua một cuộc tuyển lựa khắt khe), các trường cao đẳng cộng đồng luôn cung cấp những chương trình giúp củng cố những kiến thức và kỹ năng cơ bản cho những sinh viên yếu (dưới chuẩn) để giúp họ có thể theo kịp chương trình học ở trình độ sau trung học.

Tất cả nghe qua thì rất hay và rõ ràng đáng được duy trì, nhưng những con số sau đây chắc chắn sẽ làm cho bất cứ ai ủng hộ mô hình cao đẳng cộng đồng cũng phải giật mình. Cứ 5 sinh viên đăng ký vào học ở một trường cao đẳng cộng đồng thì có đến 3 người phải theo học những chương trình phụ đạo những kiến thức và kỹ năng của trung học. Đáng giật mình hơn là cứ mười sinh viên phải học phụ đạo khi vào cao đẳng cộng đồng thì chỉ có hơn hai người hoàn tất và tốt nghiệp với tấm bằng cao đẳng hai năm với thời gian học tổng cộng là … tám năm!

Những số liệu nêu trên bộc lộ một bất cập rất lớn trong mô hình cao đẳng cộng đồng hiện nay, mà điểm mấu chốt cũng là ở khâu tiếp nhận sinh viên. Bài viết của Daniel de Vise trích lời của Robert Templin, Hiệu trưởng trường Cao đẳng cộng đồng Bắc Virginia, cho rằng các lớp học phụ đạo như hiện nay là không hữu ích và làm lãng phí thời gian của sinh viên vì phải học lại khá nhiều điều họ đã biết hoặc những điều không thực sự cần thiết cho việc học ở bậc cao đẳng và nghề nghiệp của họ sau này. Vì vậy, thay vì yêu cầu các sinh viên còn yếu kiến thức cơ bản (việc xác định sinh viên yếu được thực hiện dựa trên điểm số của một bài kiểm tra) phải theo học các lớp phụ đạo trước khi họ có thể bắt đầu chương trình chính khóa, một số trường vào thẳng chương trình chính và tự chọn tham gia các khóa học phụ đạo bất cứ khi nào họ thấy cần củng cố kiến thức để có thể học lên tiếp.
--------
“Tám biện pháp cải thiện nền giáo dục Mỹ” tất nhiên cũng là ý kiến của chỉ một tác giả, và bài viết này sau khi ra đời đã gây ra những tranh cãi nảy lửa trên báo chí Mỹ, với những lời phản bác nặng nề – một điều rất bình thường trong một xã hội đề cao tự do tư tưởng và tự do ngôn luận như Mỹ. Nhưng bài viết của Daniel de Vise về những vấn nạn và giải pháp đối với nền đại học của Mỹ vẫn rất có giá trị vì những nhận định sắc bén và mới mẻ của nó. Và thật thú vị, nếu nền đại học Việt Nam rất khó học hỏi từ những thành tựu của mô hình đại học Mỹ, thì những bất cập và thất bại của nó dường như lại có thể là những bài học lớn mà các nhà lãnh đạo ngành giáo dục của Việt Nam có thể rút ra để cải thiện giáo dục của chính mình.

"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (2)

4. Cải cách chương trình cốt lõi

Một điểm tự hào khác của nền giáo dục Mỹ là chương trình đào tạo dựa trên một nền kiến thức rộng (mà ở trên ta đã đề cập đến dưới tên gọi là giáo dục khai phóng). Tất cả sinh viên Mỹ dù học ngành nào đều có chung một nền tảng kiến thức kinh điển tương tự nhau: Plato, Shakespeare, Darwin, tiếng La Tinh hoặc tiếng Hy Lạp, vv. Những người ủng hộ cách xây dựng chương trình như trên đã đưa ra lập luận rằng một trong những sứ mạng quan trọng của trường đại học là truyền lại cho thế sau những di sản tinh thần của nhân loại.

Những người ủng hộ cải cách lại cho rằng điều quan trọng không phải là cung cấp cho sinh viên những kiến thức kinh điển vốn ít đóng góp trực tiếp vào nhu cầu sử dụng hàng ngày và lại đầy ra trong sách vở, tài liệu, mạng Internet, mà là cung cấp cho họ những kỹ năng thiết yếu trong cuộc sống, ví dụ như kỹ năng tư duy phê phán chẳng hạn. Vì nếu không cải cách theo hướng này thì các trường đại học sẽ tạo ra những con người có thể biết rất nhiều nhưng chẳng làm được điều gì ra hồn cả.

5. Tăng cường giao bài tập về nhà

Nếu so với thời gian cách đây nửa thế kỷ thì thời gian học tập tại nhà của sinh viên đại học Mỹ đã giảm đi một cách đáng kể, từ 25 giờ một tuần xuống còn khoảng 15 giờ một tuần, Daniel de Vise đã ghi nhận như trên trong bài viết của mình. Tuy vậy, trong khi thời gian học tập giảm đi thì sinh viên ngày nay lại đạt điểm số trung bình cao hơn các cụ sinh viên cách đây 50 năm, từ mức 2.5 trên 4 tức ngay mức trung bình khá (giữa C và B) lên thành mức 3.0 trên 4 tức mức khá.

Những số liệu này phải chăng cho thấy sinh viên Mỹ ngày nay thông minh hơn và học hành có hiệu quả hơn cách đây nửa thế kỷ? Hay ngược lại, nó cho thấy các trường đại học Mỹ đang trở nên dễ dãi hơn rất nhiều đối với các sinh viên của mình? Các nhà nghiên cứu giáo dục Mỹ thiên về cách diễn giải thứ hai. Xin nhắc lại kết quả của cuộc khảo sát sử dụng bài trắc nghiệm CLA đã đề cập ở trên. Cuộc khảo sát này cho thấy có đến 36% sinh viên tốt nghiệp không học được thêm một chút gì trong suốt thời gian học đại học. Nếu kết nối thông tin này với những số liệu đã nêu đoạn trên thì có thể thấy ngay sự dễ dãi của các trường đại học là nguyên nhân chính làm giảm sút chất lượng học tập của sinh viên Mỹ.

Tại sao các trường đại học Mỹ ngày nay lại trở nên dễ dãi đối với sinh viên hơn trước đây? Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu trung có hai nguyên nhân nổi bật. Trước hết là quan niệm xem sinh viên là những khách hàng và nhà trường cần chiều chuộng hơn là cần kèm cặp, hướng dẫn, rèn luyện để giáo dục họ trở thành những con người theo những mục tiêu giáo dục đã định. Với tư cách là“thượng đế” trong trường đại học, sinh viên có quyền đưa ý kiến về mức độ hài lòng của mình sau mỗi môn học, và những ý kiến này được sử dụng để đánh giá giảng viên. Trong tình hình đó, các giảng viên sẽ trở nên dễ dãi với sinh viên, tránh đưa ra những yêu cầu quá cao kèm hoặc những đòi hỏi khắt khe trong việc chuẩn bị bài vở ở nhà, vì điều này chỉ làm cho các thượng đế kém hài lòng về mình mà thôi.

Một nguyên nhân khác là chính sách quá nhấn mạnh thành tích nghiên cứu mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy trong đánh giá giảng viên. Bài báo của Daniel de Vise trích lời một giảng viên giải thích tại sao ông ít giao các bài tập về nhà. Rất đơn giản: nếu giao nhiều bài tập cho sinh viên thì sẽ phải mất nhiều thời gian để chấm. Trong khi đó, cuộc chạy đua giành thành tích nghiên cứu để khẳng định vị trí trong các trường đại học thật nghiệt ngã. Như vậy, lựa chọn của giảng viên sẽ nghiêng về đâu là điều mà ai cũng có thể đoán được. Và hậu quả của điều này ra sao thì đã rõ.

Thêm một nhận định lạc đề khác ở đây: Phải chăng xu hướng dễ dãi với sinh viên cũng đang tồn tại rất rõ nét tại Việt Nam, dù có thể do những nguyên nhân không giống với các nguyên nhân vừa nêu trong giáo dục của Mỹ?

6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp

Như đã nêu, vị trí hàng đầu của giáo dục đại học Mỹ hiện nay vẫn đang được cả thế giới thừa nhận. Thế nhưng một loạt các kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy giáo dục đại học Mỹ không phải là hoàn toàn không có đối thủ. Xét trên một số khía cạnh thì thậm chí nền đại học Mỹ đã bộc lộ những nhược điểm khá trầm trọng và bị đang một số đối thủ tiềm năng vượt khá xa.

Một trong những nhược điểm ấy là tỷ lệ tốt nghiệp đại học của dân Mỹ chưa cao so với những nước công nghiệp phát triển khác. Một nghiên cứu của tổ chức College Board năm 2010 cho thấy nước Mỹ chỉ đứng hạng thứ 12 trên tổng số 36 quốc gia công nghiệp phát triển được khảo sát, với tỷ lệ là 40% thanh niên có một bằng cấp sau trung trung học (tối thiểu là bằng cao đẳng cộng đồng 2 năm), so với tỷ lệ 56% của Canada. Đáng lo ngại hơn nữa là sự chênh lệch rất lớn về tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn (tức không quá 6 năm kể từ ngày bắt đầu học) khi so sánh giữa các nhóm xã hội khác nhau tại Mỹ. Tỷ lệ này ở người da trắng là 60%, người gốc Mỹ Latin là 49%, còn người da đen chỉ được 40%. Tỷ lệ bình quân quốc gia cũng chỉ đạt 57%, có nghĩa là cứ hai sinh viên theo học đại học tại Mỹ thì có gần như có người không hoàn tất đúng hạn.

Việc sinh viên tham gia vào quá trình đào tạo trong một trường đại học nhưng cuối cùng bỏ dở không tốt nghiệp đáng lo ngại vì hai lẽ. Trước hết, đây rõ ràng là một sự lãng phí rất cao cho cả hai phía nhà trường và người học, khi công sức, chi phí và thời gian bỏ ra trong quá trình đào tạo cuối cùng không đem lại kết quả gì hêt. Hơn nữa, điều này cho thấy việc đào tạo của các trường đại học có một khâu nào đó trục trặc. Trên nguyên tắc, sinh viên khi đã được xét tuyển vào một chương trình đại học phải có đủ tiềm năng để hoàn tất chương trình này, và nhà trường phải có một chương trình đào tạo thích hợp, một kế hoạch hướng dẫn tỉ mỉ cũng như những điều kiện hỗ trợ cần thiết để sinh viên hoàn tất chương trình. Một khi số sinh viên đã được nhận vào nhưng sau đó lại không đủ năng lực để hoàn tất thì chỉ có thể hoặc do khâu tuyển sinh quá lỏng lẻo, hoặc do quá trình đào tạo của các trường không hiệu quả.

(còn tiếp kỳ 3)

"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (1)

Như vậy là bài viết "Tám biện pháp ..." của tôi đã được Tia Sáng đăng trên số báo đầu tháng 3/2011 vừa qua. Bản mềm có thể tìm thấy trên trang mạng của Tia Sáng, ở đây.

Còn dưới đây là bản chưa qua biên tập của tôi. Phải nói thêm: báo TS đã biên tập rất tốt, làm cho bài viết gọn gàng và dễ đọc hơn đối với độc giả. Chỉ có điều, theo nguyên tắc "văn mình, vợ người", tôi cũng vẫn muốn đăng bản gốc của mình ở đây. Thôi thì các bạn chịu khó đọc và so sánh nhé!

--------------
Giáo dục đại học Mỹ luôn được cả thế giới nhắc đến như một mô hình đại học lý tưởng, là hình mẫu cho các quốc gia khác học tập. Nhưng cũng chính nền đại học này lại không làm cho công chúng Mỹ hài lòng. Đại học Mỹ gần đây đang liên tục chịu búa rìu của dư luận về nhiều vấn đề như học phí quá cao và không ngừng gia tăng, tỷ lệ tốt nghiệp có sự chênh lệch rất lớn giữa các nhóm xã hội khác nhau, và gần đây nhất là câu hỏi không mấy dễ chịu, đó là: liệu sinh viên tốt nghiệp có thực sự học được điều gì có ích hay chăng? Nói cách khác, nền đại học Mỹ cần có những cải cách nếu không muốn bị mất vị trí hàng đầu mà nó đang có.

Nhưng cải cách giáo dục đại học Mỹ thế nào đây? Trong bài viết đăng trên tờ Washington Post ngày 20/2/2011 có tựa đề là "Eight ways to get higher education into shape", Daniel de Vise đã đưa ra tám biện pháp củng cố giáo dục đại học Mỹ. Các biện pháp đó là:

1. Đo lường việc học của sinh viên
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng" (merit aid)
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm
4. Cải cách chương trình cốt lõi
5. Tăng cường giao bài tập về nhà
6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp
7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao
8. Xem xét lại việc tổ chức phụ đạo ở các trường cao đẳng cộng đồng.

Tại sao lại là tám biện pháp nêu trên? Rất đơn giản, các biện pháp vừa nêu chính là để giải quyết các vấn đề đang tồn tại trong giáo dục đại học của Mỹ hiện nay. Chúng ta hãy cùng tác giả của bài báo xem xét từng biện pháp dưới đây.

1. Đo lường việc học của sinh viên

Các trường đại học Mỹ vốn nổi tiếng về mức độ tự chủ cao; đồng thời sinh viên đại học cũng có rất nhiều quyền lựa chọn trong việc học của mình. Điều này rất tốt, nhưng không phải không có mặt trái của nó. Theo Daniel de Vise, cách đây chỉ khoảng một thập niên trở về trước, rất ít trường đại học và cao đẳng của Mỹ có được những phương pháp khách quan để đo lường việc học của sinh viên, và vì vậy hầu như không nắm được các sinh viên đã học tập được gì từ khi vào trường đến khi tốt nghiệp.

Mãi đến thời gian gần đây, trước những áp lực của cả nhà nước lẫn công chúng thì giới đại học Mỹ mới nghiên cứu và đưa ra những bài trắc nghiệm đo lường thành quả của việc học của sinh viên đã tốt nghiệp (nói theo ngôn ngữ quản lý giáo dục của VN thì đây chính là “đánh giá chuẩn đầu ra”, tức đo năng lực đạt được của sinh viên sau khi học). Một nghiên cứu được thực hiện gần đây sử dụng bài trắc nghiệm CLA (Collegiate Learning Assessment, tạm dịch Bài trắc nghiệm học tập bậc đại học) nhằm đo lường năng lực tư duy của sinh viên tốt nghiệp đã đưa ra kết quả thực sự đáng báo động: Sinh viên tốt nghiệp đại học hầu như không có gì khác hơn so với sinh viên mới vào trường, hay nói cách khác, việc học tại trường hầu như không mang lại một chút giá trị gia tăng nào cho người học

Đây chính là lý do Daniel de Vise trong bài viết của mình đã đưa ra đề xuất đầu tiên là cần phải đo lường việc học của sinh viên. Chỉ khi nào nhà trường đo đạc được chính xác kết quả của việc học tập của sinh viên sau từng môn học và có những hành động kịp thời để thúc đẩy việc học, thì lúc ấy mới việc học ở đại học mới đem lại cho người học những giá trị gia tăng cần có.

2. Ngưng cấp học bổng "tài năng"

Biện pháp này có vẻ rất vô lý, vì đây là một trong những điểm "hấp dẫn" của đại học Mỹ và cũng là một chiêu tiếp thị quan trọng của tất cả các trường đại học nhằm thu hút tài năng đến học ở trường mình. Nhưng theo lập luận của Daniel de Vise thì việc trợ cấp này thực ra chỉ giúp con nhà giàu chứ chẳng giúp gì cho con nhà nghèo cả. Con nhà giàu thông thường sẽ có điểm học bạ ở phổ thông và điểm thi SAT/ACT thấp hơn (không có đủ điều kiện bằng con nhà giàu).

Nếu vẫn tiếp tục cách làm hiện nay, thì những người không thuộc diện được xét cấp học bổng "tài năng" không những phải đóng học phí để trả chi phí học tập của mình, mà còn phải gánh phần chi phí rất nặng của những người được cấp học bổng nữa. Kết quả là học phí ngày càng cao ngất ngưởng, khiến cho nhiều người cần học để cải thiện thu nhập nhưng không thể nào trả nổi học phí và phải nghỉ học. Khoảng cách giàu nghèo vì thế ngày càng tăng, và công bằng xã hội bị ảnh hưởng.

Một chút lạc đề: việc cấp học bổng tài năng ở Mỹ nghe rất giống các chương trình cử nhân tài năng, và mở rộng hơn nữa là hệ thống các trường chuyên ở bậc trung học tại Việt Nam. Phải chăng giáo dục của chúng ta cũng đang xuất hiện mầm mống căn bệnh “lấy của người nghèo chia cho người giàu” chứ không phải là ngược lại, như định hướng xã hội chủ nghĩa mà các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam vẫn kiên trì theo đuổi?

3. Cấp bằng đại học sau 3 năm

Ba năm là thời gian đào tạo đại học chuẩn của châu Âu theo Tiến trình Bologna (hệ thống 3-5-8 tức 3 năm xong đại học, thêm 2 năm tức sau 5 năm xong thạc sĩ, thêm 3 năm tức sau 8 năm xong tiến sĩ). Tuy nhiên, ở Mỹ thì thời gian chuẩn để hoàn tất chương trình đại học là 4 năm, không kể những người học tăng số môn mỗi năm để rút ngắn thời gian.

Theo Daniel de Vise, tác giả bài viết, thực ra trước đây Mỹ cũng đã từng đào tạo đại học trong 3 năm, cho đến khi trường đại học Harvard đưa ra yêu cầu phải kéo dài thành 4 năm (việc này xảy ra vào năm 1652). Hiện nay, một số đại học của Mỹ đang thử nghiệm áp dụng chương trình đại học trong 3 năm, và kết quả rất khả quan. Vì vậy, chẳng có lý do gì mà không trở lại chương trình 3 năm để tiết kiệm thời gian và chi phí.

Việc kéo dài thời gian học ra thành 4 năm, theo những người ủng hộ việc làm này, là nhằm có thời gian để sinh viên học những môn học "khai phóng" (liberal arts trong tiếng Anh, tạm dịch "khai phóng" trong khi chờ đợi một cách dịch hay hơn). Nhưng trong khi chi phí học tập ngày càng tăng, mà lợi ích của việc học chưa đo được rõ ràng, thì việc đòi hỏi giảm thời gian để giảm chi phí xem ra cũng rất hợp lý.

(còn tiếp)

Monday, February 21, 2011

"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (1)

Tựa của entry này là phần dịch thoát ý của tôi cho tựa bài viết đăng trên tờ Washington Post mới ngày hôm qua, 20/2/2011. Tựa tiếng Anh của bài gốc là "Eight ways to get higher education into shape", có thể tìm thấy ở đây.

Nhưng ... bài viết gì mà lạ vậy? Chẳng phải giáo dục đại học Mỹ cho đến nay vẫn được cả thế giới thừa nhận là nền đại học tốt nhất thế giới, là điểm đến mơ ước của mọi người muốn theo học ở bậc đại học đó sao? Vậy, nếu đã tốt như thế, sao bây giờ lại bàn đến 8 biện pháp để cải thiện nó, y như là nó đang đứng trước một cơn khủng hoảng hoặc thực sự hoặc tiềm ẩn nào đó vậy? Có nhầm lẫn gì đây chăng?

Không đâu, chẳng có nhầm lẫn gì hết! Chính tác giả của bài viết cũng nhắc lại những điều mà tôi mới viết trong đoạn trên: nền đại học Mỹ là mơ ước của toàn thế giới. Nhưng theo tác giả thì điều đó chỉ đúng với những trường đại học tốt nhất nước Mỹ, những tên tuổi như Harvard, Yale, Stanford, UCLA, Caltech vv gì gì đó thôi. Cứ cho rằng có vài chục trường như thế, thậm chí vài trăm đi chăng nữa, thì con số đó chẳng thấm vào đâu so với con số trên 4000 trường đại học và cao đẳng của Mỹ. Trong khi đó, chất lượng của những trường còn lại trong số 4000 trường nói trên thì không những không thể nào sánh được với những trường hàng đầu, mà đôi khi thậm chí phải nói - theo tác giả của bài viết, tất nhiên - là ... tệ hại nữa! Ai không tin, xin vào link tôi đã đưa để đọc, thì rõ ngay thôi!

Vậy chứ 8 biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ là gì? Xin đọc danh sách 8 biện pháp ấy ở dưới đây, bằng tiếng Anh, theo sau là phần giải thích dựa trên ý của tác giả kèm lời "bình loạn" của tôi:

1. Measure student learning | 2. End merit aid | 3. Three-year degrees | 4. Core curriculum | 5. More homework | 6. Encourage completion | 7. Cap athletic subsidies | 8. Rethink remediation

1. Đo lường việc học của sinh viên | 2. Ngưng cấp học bổng "tài năng" | 3. Cấp bằng đại học sau 3 năm (thay vì 4 năm) | 4. Cải cách chương trình cốt lõi | 5. Tăng bài tập về nhà | 6. Khuyến khích hoàn tất khóa học | 7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao | 8. Xem xét lại việc phụ đạo.

Đọc đến đây thì chắc chắn mọi người đều đặt câu hỏi, tại sao lại là 8 giải pháp này mà không là các giải pháp khác? Câu trả lời của tác giả bài viết là như sau: 8 giải pháp vừa nêu thực ra là 8 tồn tại cần giải quyết, và nếu giải quyết xong 8 vấn đề đó thì chất lượng của giáo dục đại học Mỹ ắt sẽ tăng lên đáng kể. Ta hãy xét từng điểm dưới đây:

1. Đo lường việc học của sinh viên: Có một thực tế là sinh viên Mỹ được tin là học hành khá nhàn hạ, chủ động học theo nhu cầu và lựa chọn của mình mà không phải chịu sức ép của thầy cô, sự kiểm soát của nhà trường. Nhưng chính vì vậy mà không ai biết sinh viên Mỹ học xong cái bằng đại học thì thực ra học được cái gì. Cho đến gần đây, dư luận bắt đầu đòi hỏi phải đo lường việc học của sinh viên sau khi ra trường (nói theo kiểu VN thì đó là đánh giá chuẩn đầu ra đấy, tức đo năng lực đạt được của sinh viên sau khi học). Các cơ quan kiểm định cũng bắt đầu quan tâm đến đầu ra, chứ không chỉ là đầu vào và quá trình hoạt động như trước giờ họ vẫn làm nữa.

Và để đáp ứng đòi hỏi này đã có một số nghiên cứu được thực hiện, mà kết quả của chúng cho thấy rằng ... dường như sinh viên học xong đại học đã không học được gì hết!!! Nói cách khác, học đại học chẳng có tác dụng gì hết, ngoài việc được cấp cho một tờ giấy! Nguy quá! Có thể đọc về những nghiên cứu ấy ở nhiều nơi, chẳng hạn như ở đây này. Và còn nhiều nữa, cứ lên google search mấy từ "study finds college students learn nothing" là ra hết.

2. Ngưng cấp học bổng "tài năng": Có vẻ là một điều vô lý, phải không? Vì một trong những điểm "hấp dẫn" của đại học Mỹ chính là chỗ này đây: cấp học bổng cho những người thuộc diện "tài năng". Lập luận của tác giả bài viết: việc trợ cấp này thực ra chỉ giúp con nhà giàu chứ chẳng giúp gì cho con nhà nghèo cả. Vì con nhà nghèo thì thường có điểm học bạ ở phổ thông và điểm thi SAT/ACT thấp hơn (không có đủ điều kiện bằng con nhà giàu). Cái này xem ra hơi giống vụ trường chuyên, lớp chọn ở phổ thông và chương trình tài năng, tiên tiến ở đại học của VN đây.

Nếu vẫn tiếp tục cách làm hiện nay, thì những người không thuộc diện được xét cấp học bổng "tài năng" không những phải đóng học phí để trả chi phí học tập của mình, mà còn phải gánh phần chi phí rất nặng của những người được cấp học bổng nữa. Kết quả là học phí ngày càng cao ngất ngưởng, khiến cho nhiều người cần học để cải thiện thu nhập nhưng không thể nào trả nổi học phí và phải nghỉ học. Khoảng cách giàu nghèo vì thế ngày càng tăng, và công bằng xã hội bị ảnh hưởng ...

3. Cấp bằng đại học sau 3 năm: 3 năm là thời gian đào tạo đại học chuẩn của châu Âu theo Tiến trình Bologna (hệ thống 3-5-8 tức 3 năm xong đại học, thêm 2 năm tức sau 5 năm xong thạc sĩ, thêm 3 năm tức sau 8 năm xong tiến sĩ), nhưng ở Mỹ thì vẫn tiếp tục chương trình đại học chuẩn là 4 năm (tất nhiên không kể người học rút ngắn thời gian).

Theo tác giả bài viết, thực ra trước đây Mỹ cũng đã từng đào tạo đại học trong 3 năm, cho đến khi trường đại học Harvard đưa ra yêu cầu phải kéo dài thành 4 năm (việc này xảy ra năm 1652). Hiện nay, một số đại học của Mỹ đang thử nghiệm áp dụng chương trình đại học trong 3 năm, và kết quả rất khả quan. Vì vậy, chẳng có lý do gì mà không trở lại chương trình 3 năm để tiết kiệm thời gian và chi phí.

Việc kéo dài thời gian học ra thành 4 năm, theo những người ủng hộ việc làm này, là nhằm có thời gian để sinh viên học những môn học "khai phóng" (liberal arts trong tiếng Anh, tạm dịch "khai phóng" vì chưa tìm được từ nào hay hơn). Nhưng trong khi chi phí học tập ngày càng tăng, mà lợi ích của việc học thì không đo được rõ ràng (xem lại mục 1), thì việc đòi hỏi giảm thời gian để giảm chi phí xem ra cũng rất hợp lý!

(còn tiếp)

Sunday, December 5, 2010

Điểm thi cao, năng lực thấp!

Tựa của entry này thực ra là được dịch từ tiếng Anh. Đó là tựa của một mẩu ý kiến đăng trên trang Ý kiến của tờ New York Times, vừa đăng ngày 3/12/2010, ở đây.

Ý kiến trên chỉ là một phần của cuộc tranh luận mới được mở ra với câu hỏi được đặt ra là "What is a college degree in China worth?" - Bằng đại học ở TQ có giá trị đến đâu?

Một cuộc tranh luận rất đáng đọc, vì nó chỉ ra nhược điểm cơ bản của giáo dục đại học TQ, là một nền đại học vốn phát triển rất nhanh trong vòng 10 năm qua, và hiện nay đã tạo được một số thành quả nhất định. Ví dụ, đã có một số trường ĐH hàng đầu của TQ như ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa lọt vào top 200 của ARWU năm 2010 này (xem ở đây). Thành quả này đáng tự hào lắm chứ, phải không?

Nhưng có phải là mọi việc đang rất tốt, giáo dục ĐH Trung Quốc chỉ việc tiếp tục phát triển theo con đường của mình đã vạch ra hay không? Theo các học giả có ý kiến đang được đưa ra trong cuộc tranh luận kia, mọi việc không hẳn chỉ có màu hồng, mà còn có cả màu tối. Thậm chí có lẽ gam màu tối là chủ đạo trên bức tranh giáo dục ĐH của TQ nữa.

Này nhé, các kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu độc lập Mc Kinsey cho biết không đến 10% số sinh viên TQ tốt nghiệp có đủ khả năng để làm việc tại các công ty đa quốc gia tại TQ, và 44% lãnh đạo các công ty này cho rằng sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao là trở ngại lớn nhất cho việc phát triển của các công ty này trong tương lai. Có thể tìm thấy link dẫn đến các nghiên cứu này trong bài viết đang được đề cập đến trong entry này, mà đường link đã được đưa ở trên.

Nói cách khác, nếu đánh giá chất lượng giáo dục đại học của TQ thông qua chất lượng của sinh viên tốt nghiệp thì rõ ràng là giáo dục đại học TQ vẫn chưa thể nói là đã thành công, bất kể những đầu tư to lớn của chính phủ và toàn xã hội, cũng như sự phát triển vượt bậc về mặt số lượng của giáo dục ĐH TQ trong những năm qua. Tức là giáo dục đại học của TQ nhìn chung vẫn là chất lượng thấp!

Tại sao thế? Tác giả bài viết của chúng ta, mà tờ New York Times đã giới thiệu như sau
Yong Zhao is the University Distinguished Professor in the College of Education at Michigan State University. The author of "Catching Up or Leading the Way: American Education in the Age of Globalization," he often blogs about education issues
cho rằng mọi thứ có thể truy nguyên về một điểm thôi, đó là môi trường giáo dục quá nhấn mạnh thi cử (tiếng Anh là a test-oriented educational environment). Hay, "một nền giáo dục ứng thí" theo cách nói của GS Văn Như Cương vào năm 2008, có thể tìm đọc bài gốc ở đây.

Nền giáo dục ứng thí nó như thế nào nhỉ? Hãy đọc đoạn dưới đây, một đoạn thực sự đáng đọc, ngắn gọn mà đầy đủ, rõ ràng về căn nguyên, biểu hiện và hậu quả của cái gọi là nền giáo dục ứng thí của TQ mà ảnh hưởng của nó ở VN là không hề nhỏ:
China invented the keju system, which used tests to select government officials. It was a great invention because it enabled talents from across the society to join the ruling class regardless of their family backgrounds. Hence, a great meritocracy could be created. But it evolved into a nightmare for China as the system gradually changed into one that tested memorization of Confucian classics.

Keju is dead now but its spirit is very alive in China today, in the form of gaokao, or the College Entrance Exam. It's the only exam that matters since it determines whether students can attend college and what kind of colleges they can attend. Because of its life-determining nature, gaokao has become the “baton” that conducts the whole education orchestra. Students, parents, teachers, school leaders and even local government officials all work together to get good scores. From a very young age, children are relieved of any other burden or deprived of opportunity to do anything else so they can focus on getting good scores.

The result is that Chinese college graduates often have high scores but low ability. Those who are good at taking tests go to college, which also emphasizes book knowledge. But when they graduate, they find out that employers actually want much more than test scores.

Vậy phải làm sao? Ái chà chà ... Câu hỏi khó đây.

Tác giả của chúng ta cũng trả lời, nhưng hình như không được rõ ràng, đầy đủ như phần mới trích dẫn, mà có vẻ rụt rè, không mấy tự tin, như sau:
Chinese educators are well aware of the problems with the gaokao system and have been trying to move away from the excessive focus on testing. But seeking other valid indicators of strong academic records will take time, especially in a country of 1.3 billion people.

TQ, một con rồng đang lên, với mấy trường ĐH trong top 200 của ARWU (nhớ nhé, ARWU chứ không phải là một hệ thống xếp hạng kém ổn định nào đâu nhé), mà còn như thế, thì VN sẽ ra sao, nếu chúng ta cứ hài lòng với một nền giáo dục ứng thí như hiện nay nhỉ?

À mà có hài lòng đâu nhỉ, thi cử của mình thay đổi mãi đấy thôi, là do chưa hài lòng nên mới thay đổi chứ?

Ái chà ... Một vấn đề khó quá chừng chừng! Một câu hỏi lớn không lời đáp ...

Thôi thì khuyến mãi tấm hình này vậy. Bạn có thấy quen quen không, ừ, giáo viên ngồi dán túi bài thi đấy, giống VN ghê chưa! À mà hình này lấy từ bài viết đã nêu đấy ạ, không phải của tôi, tất nhiên rồi.

Sunday, November 7, 2010

Đại học Mỹ dưới mắt phụ huynh TQ

Cũng giống VN, rất nhiều phụ huynh TQ gửi con em sang Mỹ học ĐH, bất chấp những chi phí không hề nhỏ. Tại sao họ làm thế? Bài viết dưới đây có thể giúp ta có được câu trả lời. Bài vừa đăng trên tờ Trung Hoa nhật báo ngày 2/11/2010 mà tôi mới đọc hôm nay, ở đây. Tác giả bài viết là một phụ huynh vừa đi dự tuần lễ dành cho các bậc phụ huynh tại một đại học nhỏ của Mỹ, một liberal arts college mà trong tiếng Việt hiện nay vẫn chưa có từ tương đương.

Ngay câu đầu tiên là đã thấy ấn tượng rồi:
A liberal arts college in the United States offers more benefits than universities in China. Một trường đại học nhỏ giảng dạy khoa học cơ bản của Mỹ đem lại nhiều lợi ích cho sinh viên hơn những đại học lớn của TQ.

Tại sao thế? Rất đơn giản: đại học Mỹ chú trọng phát triển con người, còn đại học TQ chỉ chú trọng phát triển ngành nghề mà thôi.

Hãy đọc những câu sau để rồi cảm thấy đau xót, vì hình như tình hình tại VN cũng tương tự như vậy:
Before returning to New York a week ago, a professor who taught at a university in China talked about how education had gone astray in many Chinese institutions. The professors are no longer passionate about teaching and the students are no longer passionate about schools.

I already felt that mood 10 years ago when my alma mater in Shanghai built monstrous twin towers in the middle of the beautiful old campus. No one seemed to think to use that money to hire good professors or offer financial aid to some of the brightest students from underprivileged families.

The parents' weekend I attended was a clear reminder of how the fundamental values of education have long been forgotten by many Chinese schools. Tuần lễ dành cho phụ huynh mà tôi vừa tham dự đã nhắc cho tôi nhớ rất rõ rằng những giá trị căn bản của giáo dục đã bị nhà trường ở TQ quên mất từ lâu.

Không rõ phụ huynh VN có đi dự những hoạt động như vậy không nhỉ, và họ nghĩ gì?

Thursday, July 15, 2010

TQ: "Chiến lược quốc gia về giáo dục đại học cần điều chỉnh" - và những suy nghĩ vụn

Đó là tựa của một mẩu tin đã đăng trên Trung Hoa Nhật báo (tiếng Anh - China Daily) cách đây hơn một tháng rồi. Nó ở đây.

Phải nói thêm cho rõ: nguồn tin, và nội dung tin, thì là của China Daily, nhưng cái tựa mà tôi dịch ở đây là lấy từ People Forum (Diễn đàn nhân dân), ở đây. Từ mẩu tin đó, tôi mới lần ra cái tin từ China Daily, mà tôi đã đưa link ở trên. Còn tựa của China Daily là "Tweak strategy". Tạm dịch là "Chỉnh tinh chiến lược" (chỉnh tinh, hay tinh chỉnh, là dịch từ fine-tune của tiếng Anh, có nghĩa là thay đổi nhỏ cho phù hợp. Tweak là một từ khó dịch vì nó là một slang, phong cách hơi 'bất kính', không trang trọng).

Tin này thật ra cũng bình thường, không có gì "nóng" hoặc "thời sự" cả. Chỉ là do nó có liên quan ít nhiều đến việc tuyển sinh và cơ hội việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, nên tôi đã cho dịch ra để làm tư liệu mà thôi.

Vì công việc của tôi hiện nay - đánh giá chất lượng giáo dục đại học (nghe to tát quá, đúng không, thật ra là một việc rất khó, và tôi cũng chỉ là người tổ chức công việc, còn sự đánh giá đó là do các chuyên gia ở khắp nơi trong và ngoài nước cùng tham gia thực hiện) - đòi hỏi tôi phải đọc và ngẫm nghĩ, học hỏi từ các nền giáo dục khác, để may ra tìm ra được ít nhiều kinh nghiệm có thể áp dụng cho mình.

Và điều tôi quan tâm trong mẩu tin mà tôi đang giới thiệu là ở đây: TQ đang bắt đầu đặt câu hỏi cho mình về bước kế tiếp của việc mở rộng giáo dục đại học, tăng tỷ lệ người đi học đại học trên dân số - tức phát triển về số lượng. Học xong rồi, tốt nghiệp rồi, thì các sinh viên này có tìm được việc làm hay không? Ừ nhỉ!

Một câu hỏi rất ... hay! Nó cho thấy sự nguy hiểm của việc phát triển xã hội theo lối tư duy áp đặt từ trên xuống. Kế hoạch năm năm, mười năm, chi tiết đến từng con số. Thôi, thì làm kế hoạch phải cụ thể, chi tiết. Thế cũng được. Sợ nhất là sau khi kế hoạch được ban hành rồi thì lại dùng ý chí chính trị để ép cho thực tế phải chạy theo ý mình. Duy ý chí.

Đã lấy ý chí chính trị, và lôi cả hệ thống chính trị vào để buộc thực hiện các chỉ tiêu đó, thì các chỉ tiêu đó sẽ đạt được. Nhưng như thế thì các mục tiêu trở thành những mục đích tự thân, làm để mà làm, để thể hiện quyết tâm cao, để chứng minh kế hoạch là đúng, lãnh đạo là sáng suốt.

Rồi sau một thời gian, thì bỗng ớ ra: Đạt được các chỉ tiêu đó, rồi sao nữa???

Tôi bỗng nhớ câu ca dao "tân thời" của VN (không nhớ chính xác, chỉ mài mại một đoạn)

Đi nhanh ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi sẽ đi đâu?
Đi đâu không biết hàng đầu cứ lên!


PS: Tôi sẽ đăng bản dịch mẩu tin đó lên blog này trong entry sau. Vì đã dịch, nên muốn chia sẻ vậy thôi. Nhằm phục vụ thông tin đến các bạn có quan tâm ủng hộ blog này mà! ;-)

Wednesday, June 16, 2010

Rất đáng đọc: "Copy and Paste Knowledge Creation"

Đó là tựa một entry trên một blog bằng tiếng Anh với tên là Global Cognition mà tôi mới tình cờ khám phá ra hôm nay. Entry đó ở đây.

Tôi tìm thấy entry này khi tôi search cụm từ "India Higher Education Knowledge Creation Retail". Chả là vì tôi đang quan tâm đến bước đi của 2 nước "đại gia" của Châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ, xem họ đang làm gì với giáo dục đại học của họ.

Hai nước này vốn đang minh họa cho 2 mô hình rất khác nhau của châu Á, cả về thể chế chính trị, lẫn các định chế văn hóa và xã hội, các chính sách phát triển kinh tế, khoa học, và giáo dục đại học.

Và trong một cuốn sách nào đó tôi quên rồi, viết về giáo dục đại học và ước mơ đẳng cấp quốc tế, các tác giả của nó đã nhắc đến Ấn Độ với cái tựa sao đó tôi cũng quên rồi, mà trong đó có cụm từ tôi nghe qua là dịch được ngay và nhớ ngay đến giờ, là "bán lẻ tri thức". Giờ đây thì cụm từ "bán lẻ tri thức" cũng đã trở nên quen thuộc, nhưng khi tôi dùng cụm từ đó cách đây vài năm thì người nghe còn thấy kỳ lạ lắm.

Quay trở lại entry tôi đang giới thiệu ở đây. Cái tựa của nó có thể dịch là "Sáng tạo ra tri thức bằng phương pháp sao chép". Một cái tựa thật ... ấn tượng!

Mà ấn tượng nhất, đối với tôi, là mặc dù tác giả chẳng đề cập gì đến VN cả, nhưng sao cái tựa này lại đúng với tình hình VN hiện nay đến thế?

Để xem bài viết ấy nói gì nhé. Đáng chú ý, theo tôi, là những đoạn sau đây:
Can one copy Stanford or MIT by merely putting up a campus of such institutions? Can one copy the breakthrough Georgia Institute of Technology has achieved through its Advanced Technology Development Center? Or let’s make it easier, could a nation copy the syllabus and organizational structure of MIT (it is all available online) and achieve the same? What I have learned and seen of the world, duplication is flattery yet self effacing in academia.

The trend of copy and paste knowledge creation stations continues across the globe. For example, if ever in Dubai, one must visit what I have come to call the mall of universities i.e. the Knowledge Village. It is over 300 universities from across the world with literally a store front like setup. At the same time though, the American University in Dubai has built a large and open campus that creates a sense of being in an education institution in comparison to the Knowledge Village.

[...]

Lastly, and most importantly, the knowledge creator must be allowed to fail. I am afraid that the large corporate culture of incremental innovation and avoiding or not recognizing failure may creep into the academic institutions, where risk taking is encouraged to create breakthroughs. More on this topic in the near future.

Rất đáng suy nghĩ! Tóm tắt: để sáng tạo ra tri thức (nhiệm vụ chủ yếu của một trường đại học), thì không thể bắt chước một cách dễ dàng những điều nông cạn, hời hợt ở bên ngoài, chẳng hạn như tỷ lệ giảng viên trên sinh viên, hoặc cơ sở vật chất, hoặc tiền đầu tư trên đầu sinh viên - mặc dù những điều này đều rất cần.

Cần có nhiều thứ khác, lâu dài hơn, trong đó theo tôi quan trọng nhất là "người sáng tạo ra tri thức phải được phép sai lầm" - tức nôm na là nếu nghiên cứu có khi không ra kết quả gì cả, ví dụ thế, thì cũng vẫn không bị trừng phạt. Làm như vậy, mới mong có những sáng chế mang tính đột phá.

Và tự hỏi, có phải TQ, cũng như VN, đang sai lầm khi đặt ra những chỉ tiêu áp đặt về mặt hành chính, thậm chí về mặt chính trị (quyết tâm chính trị!), rồi các hiệu trưởng, vốn là những người cấp dưới về mặt hành chính và cả chính trị nữa, buộc phải thi hành, không chấp nhận làm khác, và không chấp nhận sai lầm (đã nghiên cứu thì bao giờ cũng phải có kết quả tốt, đố ai dám báo cáo khác!!!!)

Có ai hiểu rằng khoa học không cần đến, và cũng không thể phục tùng, dù có muốn, những quyết tâm chính trị, dù là quyết tâm cao đến mấy, không nhỉ?

Cái mà khoa học cần, như trong bài liêm chính trong học thuật tôi đã giới thiệu, là sự theo đuổi chân lý một cách khách quan, nghiêm nhặt, và trung thực.

Khi nào thì chúng ta muốn có những cái đó? Và khi nào thì chúng bắt đầu vun đắp những giá trị đó?

Sunday, June 13, 2010

Trung Quốc: "Cần điều chỉnh chiến lược quốc gia về giáo dục đại học"

Đọc tin này bằng tiếng Anh ở đây. Còn dưới đây là bản dịch tiếng Việt của bài viết trên. Lần này, bản dịch không phải của tôi, mà của Kim Khôi - thuộc thế hệ 8x - cung cấp. Tôi đã đọc và hiệu đính lại.

Phần in nghiêng đậm trong bài dịch là do tôi thêm vào để nhấn mạnh những ý cần chú ý.

Thanks, Khoi, for providing the translation. Keep up the good work, Khoi, and enjoy reading, everybody!

---
Bắc Kinh, 04/06/2010 – Số lượng các thí sinh tham dự kỳ thi quốc gia để tuyển sinh đại học đã giảm trong vòng 2 năm liên tiếp sau khi đã đạt số lượng cao nhất vào năm 2008.

Trong tình hình như vậy, các trường đại học cần cân nhắc kỹ việc mở rộng tuyển sinh. Bên cạnh đó, chính sách quốc gia về giáo dục đại học cũng cần điều chỉnh.


Số lượng các thí sinh từ vùng nông thôn đã tăng đáng kể và hiện chiếm 61,9 % tổng số hơn 9,57 triệu thí sinh tham dự kỳ thi tuyển sinh đại học.

Việc ngày càng có nhiều học vùng nông thôn có khả năng tiếp cận với giáo dục đại học là một điều tích cực. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu đa số các sinh viên tốt nghiệp có kiếm việc làm ở thành phố hay không.

Nếu có, thì điều này có nghĩa là việc làm ở thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn, chắc chắn sẽ chịu rất nhiều áp lực. Còn nếu không,vậy họ sẽ áp dụng những gì đã học được ở đại học vào đâu?

Năm nay, các trường đại học y, dưới sự bảo trợ trực tiếp của Bộ Giáo dục sẽ tuyển 5.000 sinh viên từ nông thôn. Các sinh viên này sẽ được đào tạo miễn phí trong vòng 5 năm, sau đó quay về quê nhà để làm việc tại những bệnh viện ở địa phương. Điều này sẽ giải quyết được nhu cầu nhân lực tại các địa phương kém phát triển của các sinh viên đó.

Thực sự bệnh viện tại các thị trấn nghèo đang rất cần những bác sĩ được đào tạo lành nghề trong khi bệnh viện tại các thành phố lại quá dư thừa.

Trong bối cảnh như vậy, kế hoạch nêu trên sẽ giúp giải quyết vấn đề. Các sinh viên tốt nghiệp không những sẽ giúp cải thiện chất lượng y tế tại các thị trấn kém phát triển mà còn trút bỏ được mối lo về việc làm của mình sau khi tốt nghiệp.

Những ý tưởng tương tự đang rất cần để giải quyết vấn đề nhân lực cho các vùng kém phát triển đang thiếu chuyên gia trầm trọng, vừa tạo ra cơ hội việc làm tốt hơn cho sinh viên tốt nghiệp.

(Nguồn: Chinadaily.cn)
---
Viết thêm:
Với kinh nghiệm như trên của TQ, có lẽ VN cũng cần có những nghiên cứu về tỷ lệ sinh viên từ các tỉnh đến các thành phố lớn để dự thi tuyển sinh đại học, và về tỷ lệ các sinh viên này trở về nguyên quán để làm việc là như thế nào, để định hướng chiến lược phát triển giáo dục của mình cho đúng hướng, nhỉ?

Wednesday, June 9, 2010

Chất lượng đại học thấp, phải chăng chỉ vì mở trường dễ dãi?

Entry này là bản gốc của một bài tôi đã viết cho báo Pháp Luật TP nhân dịp Quốc hội họp và bàn về những vấn đề của giáo dục đại học. Bài viết đã được đăng báo sáng nay, tại đây dưới tựa đề "Nên kiểm định độc lập các trường đại học". Bài đã được rút gọn khá nhiều, trong đó có một số chi tiết mà tôi nghĩ là có thể được xem xét thêm nếu có điều kiện. Vì vậy, xin gửi lên đây để chia sẻ với các bạn để mong nhận được các ý kiến trao đổi.
---
Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam chưa cao, điều này có lẽ cho đến nay không còn ai thắc mắc. Nhưng nguyên nhân là do đâu, thì dường như mỗi người lại có một ý kiến khác nhau. Khá nhiều người cho rằng nguyên nhân chủ yếu của việc chất lượng giảm sút là do lâu nay ta đã cấp phép mở trường quá dễ dãi, thiếu những quy định chặt chẽ. Một số người khác thì cho rằng nguyên nhân chính là do việc xét duyệt hồ sơ mở trường của Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ yếu là xem xét trên hồ sơ chứ không kiểm tra thực tế. Đó là lý do tại sao lại có tình trạng hồ sơ một đàng, thực tế một nẻo ở trường Đại học Phan Thiết mà báo chí đã nêu lâu nay.

Nếu những lập luận nêu trên là chính xác thì để cải thiện tình trạng hiện nay, chỉ cần xem xét quy định mở trường hiện hành đã đủ chặt chẽ chưa, đồng thời đưa thêm yêu cầu bắt buộc là phải kiểm tra thực tế trước khi cấp phép. Bài viết này đưa ra một số nhận xét về quy định hiện hành cùng một vài đề xuất cải thiện chất lượng đại học Việt Nam hiện nay, nhằm đóng góp cho Quốc hội nhân kỳ họp thứ 7 của Quốc hội Khóa 12 đang diễn ra hiện nay.

Luận điểm chính của tôi là các quy định hiện hành về thành lập trường đại học rất chặt về thủ tục và hồ sơ ban đầu, nhưng lại rất lỏng về trách nhiệm và sự giám sát trong quá trình hoạt động. Những nhận định của tôi chủ yếu dựa trên việc xem xét quy định thành lập trường đại học theo Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15/1/2009.

Tóm tắt Quyết định 07
Quyết định 07 của Thủ tướng bao gồm 11 điều, trong đó có 3 điều quy định chung (Điều 1: Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, Điều 10 và 11: Thời hạn hiệu lực và trách nhiệm thi hành) và 8 quy định cụ thể như sau:
• Điều kiện thành lập (điều 2);
• Quy trình, thủ tục thành lập (điều 3);
• Thu hồi chủ trương thành lập và giải thể trường (điều 4);
• Cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh (điều 5);
• Sáp nhập, chia, tách trường đại học (điều 6);
• Đình chỉ hoạt động của trường đại học (điều 7);
• Giải thể trường đại học (điều 8); và
• Trách nhiệm của các cơ quan (điều 9).

Khi đọc nội dung cụ thể của từng điều trong quy định thì điều đầu tiên đập vào mắt tôi là văn bản trên quá nặng về hướng dẫn thủ tục, vì chỉ riêng điều 3 nói về quy trình và thủ tục đã chiếm đến 4 trang trong tổng số hơn 9 trang của văn bản. Ngoài ra, có thể nói các quy định hiện nay vừa chặt vừa lỏng, và có một vài điểm thiếu hợp lý. Xin phân tích dưới đây:

Thủ tục và hồ sơ cấp phép khá chặt chẽ nhưng cần kiểm tra thực tế
1. Các điều kiện thành lập được quy định trong Điều 2 gồm 6 điểm: phù hợp với quy hoạch mạng lưới trường đại học đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; có Dự án thành lập trường (nêu cụ thể trong điều 3); được Ủy ban nhân dân Tỉnh hoặc Thành phố thuộc trung ương chấp thuận; có đủ số lượng giảng viên và nhà quản lý; có đất để xây dựng trường (tối thiểu 5 hectare) và cơ sở vật chất, thiết bị đáp ứng yêu cầu hoạt động; có vốn hoạt động (tối thiểu 50 tỷ, không kể giá trị đất đai).

Trong 6 điều kiện này, có 2 quy định cứng về các điều kiện tối thiểu và có thể kiểm tra ngay trước khi cấp giấy phép thành lập trường: điều kiện về đất và vốn hoạt động. Những điều kiện còn lại là các thủ tục hành chính, phục vụ cho việc quản lý của nhà nước.

Như vậy, để đảm bảo chất lượng của các trường đại học sau khi được cấp giấy phép thành lập thì không những thủ tục cấp giấy phép phải chặt chẽ và được thực hiện nghiêm túc (Điều 3), mà những quy định về trách nhiệm của các bên có liên quan và các biện pháp chế tài về những vi phạm xảy ra sau khi cấp giấy phép (Điều 4 và Điều 7) cũng cần được nêu rõ ràng và chặt chẽ một cách tương xứng. Làm như thế, mới có thể giúp ngăn ngừa sự ra đời và tồn tại của những trường đại học kém chất lượng. Tuy nhiên, quy định hiện nay chưa làm được điều này.

2. Quy trình và thủ tục thành lập trường (Điều 3) rất chặt chẽ chi li, gồm 2 bước: bước 1 phê duyệt chủ trương đầu tư và bước 2 ra quyết thành lập trường, mỗi bước đều phải có sự phê duyệt cuối cùng của Thủ tướng. Quá trình thực hiện khá chặt chẽ với nhiều hồ sơ có sự phê duyệt của cấp có thẩm quyền, từ Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố thuộc trung ương nơi ngôi trường tọa lạc, Bộ Giáo dục và Đào tạo (vai trò chính yếu), các Bộ, ngành có liên quan.

Khi chủ trương thành lập trường đã được phê duyệt nếu sau 3 năm trường không triển khai được dự án thì chủ trương sẽ bị thu hồi. Cũng vậy, khi quyết định thành lập trường được ký mà sau 2 năm vẫn không chuẩn bị được đủ điều kiện để hoạt động thì trường sẽ bị giải thể (Điều 4).

Như vậy, có thể tạm yên tâm là ở khâu đầu tiên này đã có sự kiểm soát rất chặt chẽ. Sự lỏng lẻo, sơ hở nếu có chỉ có thể ở khâu thường xuyên giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các trường, và thực hiện những biện pháp chế tài khi cần thiết, chứ không phải ở khâu cấp phép, nếu mọi bước trong khâu này đều được thực hiện tốt và làm thật.

Sự giám sát và chế tài chưa được quy định rõ ràng, hợp lý
3. Sự giám sát chất lượng đối với một trường được bắt đầu ngay sau khi trường được thành lập và là trách nhiệm của Bộ Giáo dục. Trong văn bản được nêu ở đây, sau khi có giấy phép thành lập, để có thể mở ngành đào tạo và tuyển sinh phải được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo với những điều kiện rất cụ thể về số lượng giảng viên, diện tích phòng học, giáo trình, trang thiết bị vv (Điều 5).

Một câu hỏi đặt ra ở đây văn bản này không nêu rõ loại trường nào cần được kiểm tra: chỉ những trường mới thành lập sau Quyết định này (năm 2009), hay tất cả mọi trường đã thành lập, hay chỉ là trường tư, hoặc chỉ là trường công?

Nếu là tất cả các trường (điều nên làm, trong điều kiện chất lượng đào tạo đang bị xã hội kêu ca như hiện nay) thì không hiểu làm sao Bộ có thể kiểm tra xuể khi số trường đại học và cao đẳng của Việt Nam hiện đã hơn 400 trường. Nếu mỗi năm kiểm tra 20% số trường (tức 5 năm kiểm tra lại một lần) thì cần kiểm tra trên 6 trường/tháng, nếu mỗi đoàn kiểm tra làm việc 4 ngày (1 ngày đọc hồ sơ trước khi đến trường, 1 đi lại, 2 ngày kiểm tra thực địa, họp hành, hội ý) thì quanh năm suốt tháng chỉ đi kiểm tra thôi mà không làm việc gì khác cũng không có đủ thời gian.

Còn nếu chỉ kiểm tra những trường mới thành lập sau năm 2009, thì điều này có nghĩa là những trường kém chất lượng nhưng đã “lỡ” thành lập thì vẫn được tiếp tục hoạt động?

4. Sự chế tài của nhà nước đối với những vi phạm của trường đại học được quy định ở Điều 7 (đình chỉ hoạt động) và Điều 8 (giải thể). Tuy nhiên, hai điều này được quy định khá sơ sài và có những chỗ bất hợp lý:

a. Việc trình Thủ tướng đình chỉ hoạt động của trường là trách nhiệm của Bộ Giáo dục. Tuy nhiên, như đã nêu ở mục 3, Bộ sẽ không thể nào có đủ thời gian để kiểm tra thực tế.

b. Nếu không bám sát thực tế, không ra quyết định đình chỉ hoạt động, thì không thể giải thể các trường vì lý do vi phạm mà không khắc phục được hậu quả (Điều 8, Khoản 1, Mục b)

c. Một số điểm khác trong quy định về giải thể chưa rõ ràng hoặc chưa hợp lý:
i. “Mục tiêu và nội dung hoạt động của trường đại học không còn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”; (Điều 8, Khoản 1, Mục c). Rất mơ hồ: Phù hợp với yêu cầu phát triển là gì, và không rõ ai có thẩm quyền và năng lực xác định sự phù hợp này?
ii. “Do yêu cầu sắp xếp lại mạng lưới cho phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế” (Điều 8, Khoản 1, Mục c). Vừa mơ hồ, tương tự như trên, vừa không hợp lý, thậm chí bất công đối với trường tư, vì theo quy định trường đã phải thành lập theo đúng quy hoạch của mạng lưới. Nếu thực tế thay đổi thì trước hết điều này phản ánh tầm nhìn hạn hẹp của những người chứ không phải lỗi của trường, sao lại buộc trường giải thể?

Từ những phân tích nêu trên, tôi cho rằng điều quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam không phải là có thêm quy định, mà là đổi mới tư duy quản lý giáo dục của Bộ Giáo dục, chuyển từ quan điểm chỉ chú trọng quản lý chặt đầu vào và nhấn mạnh thủ tục, hồ sơ, sang quan điểm thường xuyên kiểm tra thực tế, giám sát và đánh giá khách quan, điều chỉnh kịp thời, và chế tài nghiêm khắc khi cần thiết.

Tất nhiên, nếu vẫn hoạt động như hiện nay thì Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ không thể nào làm xuể, và mọi việc vẫn như cũ. Giải pháp cho điều này thật ra đã có, thậm chí cũng đã được đưa vào Luật Giáo dục và được Quốc hội thảo luận nhiều lần, đó là tăng cường công tác kiểm định và thành lập các tổ chức kiểm định độc lập để thực hiện việc thường xuyên rà soát, đánh giá và công nhận theo các chuẩn chất lượng. Vấn đề hiện nay là làm thế nào để thực sự đẩy mạnh công tác kiểm định, đó chính là điều mà công chúng đang mong đợi các đại biểu Quốc hội bàn bạc và tìm ra giải pháp trong kỳ họp Quốc hội này.

Tuesday, June 1, 2010

Bài đáng đọc: "Nhiệm vụ bất khả" (Tall order) của đại học TQ

Bài viết ấy nói về ước mơ đại học đẳng cấp quốc tế ở Trung Quốc, được đăng trên tờ tuần báo tiếng Anh Bejing Review của Trung Quốc mới ngày hôm qua thôi, 31/5/2010. Đọc nó ở đây.

Sao lúc này tôi cứ quan tâm đến giáo dục đại học Trung Quốc thế nhỉ? Chỉ vì cách đây ít lâu tôi có được mời tham gia một đề tài nghiên cứu quan trọng của ngành giáo dục VN, cũng liên quan đến ước mơ đại học đẳng cấp quốc tế.

Khi tham gia đề tài đó, tôi đã nhận ra, nếu đất nước mình không có kinh nghiệm gì về xây dựng đại học thành công, thì phải học hỏi của thế giới. Và "thế giới" ở đây là những nước có điều gì đó để cho mình có thể học hỏi. Tôi đã chọn: Mỹ (vì đại học của Mỹ thành công, ai cũng phải thừa nhận), Trung Quốc (vì có thể chế chính trị cũng như văn hóa giống VN, cũng đã có ít nhiều kinh nghiệm xây dựng đại học đỉnh cao với những thành tựu nhất định), và Mã Lai (vì có điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ít nhiều giống VN vì ở trong khu vực Đông Nam Á, cũng có tham vọng đại học đẳng cấp quốc tế, và ít nhiều thành tựu về phát triển đại học - ít ra là hơn VN).

Cũng nhờ tìm hiểu về các mô hình đại học của 3 nước đó mà tôi đã đi đến một kết luận - một lý thuyết thì đúng hơn - là Trung Quốc sẽ khó lòng xây dựng được đại học đẳng cấp quốc tế nếu không thay đổi cách quản lý đại học của mình. Tuy nhiên, lý thuyết đó của tôi lúc ấy có vẻ chưa thuyết phục được mọi người lắm, vì rõ ràng là đại học TQ đang phát triển xem ra rất hoành tráng kia mà. Còn những khiếm khuyết và nguy cơ khủng hoảng mà tôi đã chỉ ra thì cũng chỉ mới là tiềm ẩn mà thôi, nên chưa ai thấy.

Vì vậy mà gần đây, khi báo chí TQ bắt đầu nêu lên những thất bại của đại học Trung Quốc, thì tôi theo dõi rất kỹ, đến nỗi cảm thấy đủ tự tin để viết loạt bài trên Tia Sáng về khủng hoảng giáo dục đại học tại Trung Quốc (lẽ ra còn phải thêm một kỳ nữa, mà tôi chưa có thời gian để viết cho xong).

Rồi kết quả xếp hạng châu Á mới đây lại thêm chứng cớ để củng cố cái lý thuyết của tôi - lý thuyết mà thật ra cũng chỉ đứng trên vai các người khổng lồ đã từng nghiên cứu về giáo dục đại học lừng lẫy trên thế giới như Tierney, Altbach, hoặc Marginson mà thôi. Rằng TQ cần phải tiếp tục đổi mới cách quản lý giáo dục đại học của mình, thì mới mong có được những thành tựu lớn một cách có hiệu quả và bền vững.

Nay, lại đọc được bài mới này: Nhiệm vụ bất khả.

Bài thì mới, nhưng nội dung thật ra cũng không có gì mới, nếu có thì chỉ là cách diễn đạt mới, người phát biểu mới, chi tiết mới mà thôi. Còn kết luận, thì ngay cả tôi cũng kết luận được, còn ai lạ gì cái kết luận đó nữa, phải không? ;-)

Dù sao thì bài ấy cũng đáng đọc, hoặc ít ra, có vài đoạn đáng được trích dẫn ở đây.

According to Yangzi Evening News, at an interview at the Fourth Chinese-Foreign University Presidents Forum in Nanjing, east China's Jiangsu Province, in early May, Richard Levin, President of Yale University, said that the multidisciplinary breadth and cultivation of critical thinking are the two key elements that have been missing in China's higher education. He was critical of the extremely specialized higher education in Asia, where students pick a discipline or a profession at 18 and study little else. He also critiqued the traditional Asian pedagogy, which focuses on the mastery of content, not on the development of the capacity for independent and critical thinking.

Dịch tóm tắt: Richard Levin, Hiệu trưởng ĐH Yale (nhân tiện, trường này là nơi có bà Đỗ Ngọc Bích nổi tiếng của chúng ta đang làm việc, và là một trường rất thân với Trung Quốc và ủng hộ Trung Quốc hết mình) đã phát biểu rằng 2 yếu tố then chốt hiện đang vắng bóng trong giáo dục đại học của TQ là tính liên ngành của chương trình và tư duy phản biện của sinh viên. Ông cũng phê phán phương pháp sư phạm của châu Á, vốn quá chú trọng việc học kiến thức mà quên đi việc phát triển năng lực tư duy độc lập và phản biện.

Ni Jun, Professor of Manufacturing Science at the University of Michigan who has taught in several universities throughout China and the United States, said while the new recruits of the top 10 universities in China are by no means less intelligent than their counterparts in the United States, different pedagogies have produced different graduates.

Dịch tóm tắt: Ni Jun, GS trường ĐH Michigan, người có kinh nghiệm giảng dạy cả ở TQ lẫn ở Mỹ, nói trí tuệ ở đầu vào của sinh viên TQ và Mỹ là ngang nhau nhưng đầu ra khác nhau, do phương pháp sư phạm khác nhau sẽ dẫn đến những kết quả khác nhau.

Chà chà, cái nhận định ngay trên đây đáng ngại quá nhỉ? Mà hình như VN cũng tương tự như thế hay sao ấy? Vậy phải làm sao đây?

Cũng giống như VN (mà thực ra, ai làm giống ai nhỉ?), TQ đang đổi mới quản lý giáo dục. Nhưng đổi mới như thế nào cơ chứ? Đây này:

"An excellent university should have independent thinking and free expression, [...]" said Wen.

Reducing government interference in university operations and removing the rigid administrative ranking-based hierarchy of faculty and staff have long been regarded as priorities in the reform of Chinese institutions.

Dịch tóm tắt: (Này, chú ý là Thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu đấy nhé!) Trường đại học xuất sắc phải có tư duy độc lập và tự do phát biểu. Phải giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp của chính quyền vào việc vận hành hàng ngày của trường đại học, và xóa bỏ hệ thống cấp bậc mang tính hành chính của cán bộ, giảng viên các trường.

Thế hiện nay thì sao? Đọc phát biểu của Hiệu trưởng một trường đại học nhé:
Receiving an interview in March, Yi Hong, President of Nanjing-based Southeast University, which is directly administered by the Ministry of Education, said the government is administrating universities as if they were government agencies and administrative powers can decide the results of ratings of universities, the allocation of funding, the design of curriculum, how to use government funding and how to evaluate university laboratories.

Dịch tóm tắt: Nhà nước đang đối xử với các trường giống như đối xử với các cơ quan của chính quyền, và các quan chức nhà nước có quyền định đoạt kết quả phân loại trường đại học, cấp phát kinh phí, thiết kế chương trình giảng dạy, sử dụng ngân sách nhà nước, thậm chí cả đánh giá các phòng thí nghiệm của trường đại học nữa!

Quả là giống VN, cứ như là hai anh em sinh đôi! Vì hiện nay Bộ GD cũng đang chỉ thị đổi mới quản lý giáo dục. Không hiểu Bộ có sẽ thực hiện giống như TQ không nhỉ: xóa bỏ hệ thống cấp bậc mang tính hành chính của cán bộ, giảng viên?

Nếu Bộ chưa nghĩ đến, thì rất mong Bộ nghĩ đến việc cải cách quản lý nhân sự, sau khi Bộ đọc được bài này - nếu có bao giờ tôi có hân hạnh được Bộ vào đọc trang blog này của tôi!

Wednesday, May 19, 2010

Khủng hoảng giáo dục đại học tại TQ? (kỳ 2)

Bài viết này đã đăng trên Tạp chí Tia Sáng số ra ngày 15/5/2010. Kỳ 1 của bài viết này đã đăng trên blog này cách đây ít lâu. Nó ở đây.

Dưới đây là bản gốc mà tôi đã gửi đi. Bản đăng báo có thể đã được biên tập ít nhiều cho ngắn gọn và phù hợp với phong cách, mục tiêu của tờ báo.

----
Vì sao có thể nói là giáo dục đại học của Trung Quốc đã thất bại trong giấc mơ đẳng cấp quốc tế? Đó là bởi vì cho đến nay, không những Trung Quốc chưa thể lọt vào top 200 của bảng xếp hạng ARWU, mà ngay cả điều kiện cơ bản là có được một đội ngũ các giáo sư, các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh giỏi chuyên môn và có đạo đức học thuật thì Trung Quốc cũng chưa làm được. Ngược lại, tham vọng đẳng cấp quốc tế của giới lãnh đạo chính trị đã gây ra nhiều sức ép lên giới học thuật, cộng với sự lẫn lộn giữa vị trí hành chính và vị thế chuyên môn của các vị nắm quyền quản lý trong các trường đại học, đã tạo ra tình trạng “tham nhũng học thuật” nặng nề và một “thị trường đen học thuật” nhộn nhạo láo nháo với các chợ luận văn, các bài báo ma, công trình giả/dỏm, luận văn mua vv hỗn loạn trong giáo dục đại học Trung Quốc mà hiện nay toàn thế giới đều biết rõ.

Tuy nhiên, đánh giá thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc chỉ thông qua số lượng công bố khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, các giải thưởng lớn về khoa học công nghệ, hay sự tồn tại của các trường đại học nghiên cứu có đẳng cấp quốc tế có lẽ là không chính xác. Bởi giáo dục đại học không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ở đỉnh cao, mà có lẽ quan trọng hơn, là nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Một quốc gia như Trung Quốc với trên một tỷ dân và một nền kinh tế mới nổi, đang chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thì trước hết cần có các trường đại học giảng dạy (teaching universities) tốt, còn việc xây dựng các đại học nghiên cứu có tầm cỡ có thể cạnh tranh với Mỹ có thể cũng chưa cần thiết. Cũng vậy, các giảng viên làm việc trong các trường đại học giảng dạy như vậy không nhất thiết phải là những người có nhiều công bố trên các tạp chí khoa học mà đa phần là của các nước tư bản phương Tây, vốn có một truyền thống học thuật rất khác với Trung Quốc.

Như vậy, phải chăng cần tìm hiểu về thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc ở trên một khía cạnh khác, ví dụ như trong việc đào tạo nhân lực cho xã hội? Để đánh giá điều này, dễ nhất là tìm hiểu xem các sinh viên tốt nghiệp từ các đại học của Trung Quốc họ làm gì, ở đâu, và có cuộc sống nghề nghiệp ra sao. Vậy thì đây …

“Tốt nghiệp là thất nghiệp!”
Một câu nói rất mỉa mai cay độc, phải không? Đó là tựa một bài viết đăng ngày 24/3/2010 trên trang mạng youthiawaaz.com , một diễn đàn trực tuyến xuất phát từ Ấn Độ với mục đích kết nối thanh niên trên toàn thế giới. Bài viết mở đầu như sau:

“Trong vòng 5 năm trở lại đây, thật dễ dàng tìm được các mẩu tin và phóng sự về nạn thất nghiệp của thanh niên trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Vấn nạn thất nghiệp đã trở nên quá quen thuộc với thanh niên Trung Quốc đến nỗi hầu như mọi thanh niên Trung Quốc đều biết đến câu thành ngữ mới này: “tốt nghiệp là thất nghiệp”.

Nạn thất nghiệp trong những người có bằng đại học ở Trung Quốc thực sự tệ như vậy sao, hay đó chỉ là sự tuyên truyền của báo chí Ân Độ về Trung Quốc? Truyền thông chính thống của Trung Quốc nói gì về nạn thất nghiệp này? Dưới đây là những thông tin và số liệu lấy từ các tờ báo chính thống của Trung Quốc:

“Theo tin từ thành phố Đông Quản, một trong những trung tâm sản xuất chính tại tỉnh Giang Tô thuộc vùng châu thổ sông Châu Giang miền Nam Trung Quốc, có đến trên 90% các nhà máy nói rằng họ rất khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự vào 6 tháng cuối năm 2009, khi kinh tế bắt đầu hồi phục và các đơn đặt hàng từ nước ngoài bắt đầu đổ vào Trung Quốc. Việc hoạt động hết công suất dường như đối với các nhà máy của Trung Quốc chỉ còn là một giấc mơ đã xa lắm rồi.”

Mẩu tin trên lấy từ trang web của Trung Hoa Nhật báo bản tiếng Anh (China Daily) ngày 12/1/2010 . Phải chăng tình trạng này là do số lượng sinh viên tốt nghiệp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu lớn lao của các khu công nghiệp? Hoàn toàn không phải! Theo bài viết này, tình trạng nói trên phần lớn là do sinh viên tốt nghiệp không phù hợp hoặc không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Một tình trạng thật đáng buồn, được phóng viên tóm tắt trong cái tựa thật “đắt”: “Nỗi đau giáo dục của người đi xin việc”.

Nạn ngụy tạo số liệu báo cáo
Không phải là nhà nước Trung Quốc không quan tâm đến tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Trái lại thì đúng hơn. Một mẩu tin gần đây trên China Daily cho biết “Tìm việc làm ở các địa phương cho sinh viên tốt nghiệp là ưu tiên hàng đầu của chính quyền”. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng được đánh giá dựa trên tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành nghề sau một thời gian ngắn, thường từ 6 tháng đến 1 năm. Những biện pháp này cho thấy chính phủ Trung Quốc rất coi trọng nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực của giáo dục đại học để phục vụ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.

Nhưng thật mỉa mai, trước những yêu cầu của chính quyền, thay vì cố gắng thay đổi nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, và các hoạt động hỗ trợ để giúp sinh viên tốt nghiệp dễ dàng tìm được một việc làm phù hợp, thì một số trường đại học của Trung Quốc lại giở trò “gian lận” đã quen trong khi làm khoa học: đưa ra thông tin giả về tình trạng việc làm của cựu sinh viên. Một mẩu tin lấy từ trang web chính thức khác, trang china.org, vào tháng 7/2009 , đã cung cấp thông tin về sự việc này: “Các trường đại học ngụy tạo số liệu về việc làm của sinh viên tốt nghiệp”:

“Trên hồ sơ lưu của trường đại học nơi cậu đã tốt nghiệp, Tiểu Đồng được ghi là đã có việc làm. Nhưng thực ra hiện nay cậu vẫn đang vật vã cố tìm một việc làm tại Bắc Kinh.
“Chỉ có 10 trong số 29 sinh viên tốt nghiệp lớp em đã tìm được việc làm đúng nghĩa,” Tiểu Đồng nói. Cậu tốt nghiệp từ một trường đại học hàng đầu của Trung Quốc. “Nhưng trường em lại khoe khoang với bên ngoài rằng 90% sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm.”


Số liệu về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học của Bộ Nhân lực và An ninh xã hội (Ministry of Human Resources and Social Security) Trung Quốc cho biết tỷ lệ có việc làm của những người tốt nghiệp đại học trong vòng 3 năm qua dao động quanh mức 70%, tức tỷ lệ thất nghiệp lên đến xấp xỉ 30%, một tỷ lệ rất cao so với các nước khác trên thế giới. Đặc biệt, theo tin ngày 18/2/2010 trên China Daily thì tháng 6/2010 năm nay áp lực việc làm sẽ đặc biệt lớn, khi có đến 6.3 triệu sinh viên đại học và cao đẳng sẽ tốt nghiệp, một số lượng cao hơn các năm trước đây . Đây là kết quả của sự phát triển liên tục về số lượng của giáo dục đại học trong hơn 10 năm qua. Thử tưởng tượng, với tỷ lệ 30% thất nghiệp hiện nay, Trung Quốc sắp có thêm một đội quân thất nghiệp có trình độ đại học 2.1 triệu người nữa. Quả là một bài toán khó cho chính phủ Trung Quốc!

Nhưng số phận của những sinh viên tìm được việc làm cũng có vẻ chẳng khấm khá gì hơn bao nhiêu. Kết quả của một cuộc khảo sát vừa được công bố hồi tháng 3/2010, cũng trên trang mạng của Trung Hoa Nhật báo tiếng Anh cho biết:

“ 27% trong số 8,700 cựu sinh viên được khảo sát cho rằng khó khăn lớn nhất hiện nay của họ là không có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Mối quan tâm lớn thứ hai của họ là lương; có đến 20% những người được hỏi cho rằng sau khi trừ hết chi phí ăn ở, sinh hoạt thì lương của họ hầu như không còn được một xu nào.”

Áp lực của việc học ở bậc đại học, cùng với viễn cảnh tương lai không mấy sáng sủa khi tốt nghiệp, đã đè nặng lên tâm lý của các sinh viên, đặc biệt là các sinh viên từ tỉnh lẻ lên thành phố ăn học. Tin từ China Daily cuối tháng 3/2010 cho biết một nữ sinh viên ở thành phố Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô đã treo cổ tự vẫn trong nhà tắm tại ký túc xá, để lại bức thư cho gia đình giải thích về cái chết của mình là do “áp lực quá sức chịu đựng khiến cho cô không thể quyết định sau khi tốt nghiệp sẽ tìm việc làm hay tiếp tục ôn tập để dự kỳ thi tuyển đầu vào sau đại học.”

Những bức tranh ảm đạm vừa nêu, được phác họa lên từ những tin tức và số liệu chính thức trên báo chí chính thống của nhà nước Trung Quốc – gạt sang một bên rất nhiều tin tức ảm đạm khác trên báo chí phương Tây và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới hoặc UNESCO, liệu đã tạm đủ để bước đầu kết luận về sự khủng hoảng, ít ra là tiềm ẩn, của nền giáo dục đại học của Trung Quốc hay chưa?
---
Ghi chú: Bài này tôi dự tính viết xong trong 2 kỳ, nhưng khi viết hơi dài hơn dự kiến, vì cần phải thu thập và nêu đủ chứng cớ cho các lập luận của mình. Vì vậy nó kéo dài ra tới 3 kỳ, tức là còn 1 kỳ nữa. Không hiểu báo Tia Sáng có sẵn sàng đăng kỳ 3 không? Nhưng tôi cũng sẽ viết cho xong, và nếu báo đã chán chủ đề này thì tôi cũng sẽ đăng trên blog này cho đủ ý.

Hẹn các bạn ở kỳ 3!

Sunday, May 16, 2010

Tin giáo dục Mã Lai: "Giờ đây ai cũng có thể học đại học"

Tin đó ở đây.

Tóm tắt: mọi rào cản đối với việc học ở bậc đại học đã được tháo gỡ. Những người chưa có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, hoặc không có thời gian, hoặc thậm chí không có đủ tiền, giờ đây đều có thể có cơ hội học đại học tại trường đại học mở của nước này, Open University of Malaya.

Chỉ cần tốt nghiệp trung học cơ sở, có kinh nghiệm làm việc, có những kỹ năng và kiến thức tối thiểu để tham gia học, học theo những thời gian linh động theo nhiều phương thức giảng dạy khác nhau (từ xa, trực tiếp lên lớp, hàm thụ vv), và thậm chí đóng tiền trả góp nhiều lần. Còn có lý do gì để ngăn cản một người không học đại học nữa chăng?

Cái lợi của một đất nước với tỷ lệ dân số tốt nghiệp đại học cao chắc không ai chối cãi. Đó là lợi thế của mô hình Mỹ với mô hình giáo dục đại học đại chúng và gắn liền với nhu cầu xã hội ngay từ triết lý và từ xuất phát điểm. Và những nước nào muốn phát triển đều học tập mô hình này theo những cách khác nhau.

Có thể nói, đại học mở là một sáng kiến của nước Anh với trường đại học rất nổi tiếng là The Open University, website ở đây. Địa chỉ link: http://www.open.ac.uk/. Sáng kiến này nhằm đáp ứng nhu cầu đại chúng hóa và phân tầng trong giáo dục đại học, tạo ra một mô hình đại học mới bổ sung cho mô hình đại học tinh hoa. Rõ ràng, để góp phần phát triển kinh tế, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, thì không phải trường đại học nào cũng cần trở thành Oxford hay Cambridge.

Hiện tượng này sau đó đã được một số nước khác "nhập khẩu", ví dụ như Thái Lan với một trường đại học mở với số lượng sinh viên rất ấn tượng là một vài trăm ngàn gì đó, trong đó có cả những người đang bị phạt tù (học hàm thụ) mà tôi đã có dịp đến thăm vào năm 1993.

Ở VN, trước đây mô hình đại học mở theo kiểu Anh hoặc Thái Lan cũng đã được cổ súy. Tôi cũng rất may mắn có tham gia giảng dạy "đại học mở" thời đầu tiên của nó, đầu thập niên 1990. Tiếc thay, giờ đây "đại học mở" của VN chỉ còn là một cái tên, nó chẳng còn chút gì mở nữa! Kỳ thi ba chung, và kiểu quản lý "gà công nghiệp" của bộ giáo dục của VN đã biến 400 trường đại học của VN thành những trường làng nhàng, không bản sắc, không tinh hoa mà cũng chẳng đại chúng!

Chúng ta đang muốn đổi mới giáo dục. Vậy ta đổi mới như thế nào, nếu không chịu nhìn ra xung quanh và học hỏi những kinh nghiệm thành công của những người hàng xóm? Và kinh nghiệm Mã Lai rõ ràng là một kinh nghiệm không tồi. Thử nhìn sự phát triển ổn định của người hàng xóm này thì đủ rõ.

Có ai có suy nghĩ gì về vấn đề này không?

Tuesday, May 4, 2010

Khủng hoảng giáo dục đại học tại Trung Quốc?

Bài này của tôi đã được đăng trên Tạp chí Tia Sáng số ra đầu tháng 5/2010. Dưới đây là bài gốc của tôi. Có lẽ tòa soạn đã biên tập lại cho gọn gàng hơn? Tôi đã đọc, và về cơ bản thấy bản đã đăng không khác gì với bản gốc. Các bạn đọc ở dưới nhé!

Khủng hoảng giáo dục đại học tại Trung Quốc?

Sự phát triển vượt bậc – ít nhất là về số lượng – của giáo dục đại học Trung Quốc (TQ) trong vài thập niên vừa qua đã có lúc làm cho cả thế giới phải quan tâm theo dõi . Và cùng với đó là thái độ trầm trồ, thán phục của các nước đang phát triển, xem TQ như một hình mẫu để học tập. Hoặc tâm trạng lo sợ của các nước phương Tây vì TQ đã nổi lên như một mối đe dọa, một sự đối thủ cạnh tranh mới trong lãnh vực giáo dục ĐH.

Thật ra, những dấu hiệu đầu tiên của sự khủng hoảng giáo dục đại học Trung Quốc đã bộc lộ từ lâu, và đã nhiều lần được báo chí phương Tây chỉ ra. Tuy nhiên, trong thời gian đầu tiên, những thành tựu nhanh chóng của giáo dục đại học đã làm cho người Trung Quốc “say men chiến thắng”. Vì vậy, những dấu hiệu khủng hoảng đã bị các nhà lãnh đạo và quản lý ngành giáo dục Trung Quốc nhất loạt gạt qua một bên, không được thừa nhận và xem xét để tìm cách cải thiện.

Mãi cho đến gần đây, khi sự khủng hoảng của giáo dục đại học đã tạo ra tác hại rõ ràng lên sự phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc, thì các phương tiện truyền thông đại chúng – vốn được nhà nước Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ – mới bắt đầu lên tiếng. Không còn giấu diếm được nữa, báo chí Trung Quốc đang dần phơi bày ra mặt trái của tấm huân chương thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc.

“Trung Quốc không có nổi một trường đại học đẳng cấp quốc tế!”
Tựa nhỏ trên đây là phát biểu vừa được đăng ngày 18/4/2010 trên trang chinadaily của Trung Quốc trong mục “trích dẫn trong tuần” (weekly quote) . Tác giả của phát biểu này là nguyên hiệu trưởng Trường đại học Bắc Kinh, ngôi trường luôn dẫn đầu danh sách xếp hạng các trường đại học của Trung Quốc. “Đẳng cấp quốc tế” ở đây cần được hiểu là 200 vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng đại học thế giới (ARWU) của Trường Đại học Giao thông Thượng Hải (SJTU).

Việc không có tên trong 200 vị trí đầu của ARWU là việc rất bình thường đối với tuyệt đại đa số các trường đại học trên khắp thế giới. Có lẽ ngoài Trung Quốc (và một vài quốc gia đua đòi theo giấc mơ “đại học đẳng cấp quốc tế” của Trung Quốc) thì bảng danh sách này không có ý nghĩa gì lắm đối với các vị nguyên thủ quốc gia. Tổng số trường đại học trên thế giới hiện nay theo ước tính thận trọng nhất cũng đã lên đến cả chục ngàn trường (chỉ riêng Mỹ đã có hơn 4000 trường đại học và cao đẳng). Con số 200 so với trên 10 ngàn trường là tỷ lệ chưa đến 2/100, một tỷ lệ đủ nhỏ để người ta có thể xem nó như một ngoại lệ hơn là một quy luật.

Nhưng đối với Trung Quốc thì khác. Bảng xếp hạng nổi tiếng toàn cầu kia, thật tự hào mà cũng thật hổ thẹn, là sản phẩm do các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra cho chính giáo dục đại học Trung Quốc. Theo Nian Cai Liu , tác giả của ARWU, mục đích của bảng xếp hạng này là giúp các trường đại học của Trung Quốc hiện thực hóa ước mơ và cũng là chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc: Phải xây dựng cho được một số trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Trung Quốc.

Từ lúc ra đời vào năm 2004 đến nay, việc có được một vị trí cao trong bảng xếp hạng ARWU đã trở mục tiêu phấn đấu của giáo dục đại học Trung Quốc, và là cơ sở để quyết định mức độ đầu tư của nhà nước cho các trường đại học trọng điểm. Hàng núi tiền đã được nhà nước Trung Quốc liên tục đổ xuống cho các trường đại học được chọn tại Trung Quốc để dành một vị trí cao trong trong hơn một thập niên vừa qua. Nhưng dù cố gắng đến mức nào thì vị trí xếp hạng của các trường đại học của Trung Quốc vẫn cứ quanh quẩn mức khởi đầu khi bảng xếp hạng này mới ra đời, ở vị trí 300-400 của thế giới. Trong khi đó, nhiều trường đại học của Nhật từ lâu đã có mặt ở danh sách 100 trường đầu tiên. Và, mỉa mai thay, chính Đài Loan cũng có được một trường đứng ở vị trí khá cao trong danh sách các trường đại học có đẳng cấp do TQ tạo ra để đo mức độ thành công của những nỗ lực của chính mình.

Đó là lý do tại sao việc không có tên trong các vị trí đầu tiên của một bảng xếp hạng ARWU đã được các nhà lãnh đạo chính trị của Trung Quốc xem là biểu hiện của sự không thành công, thậm chí là dấu hiệu ban đầu của khủng hoảng. Mà nếu ta bỏ qua danh sách này như một ước mơ đẹp nhưng thiếu hiện thực, thì vẫn còn rất nhiều dấu hiệu khủng hoảng khác giờ đây đang bộc lộ ra dồn dập trên nhiều khía cạnh. Chúng đang tạo ra một hình ảnh khác về giáo dục đại học Trung Quốc, không giống với ảo tưởng về thành tựu đáng tự hào như mọi người vẫn tin tưởng lâu nay.

“Công bố đi rồi chết!”
“Publish or perish”, công bố hay là chết, là phương châm hoạt động của giảng viên các trường đại học phương Tây. Câu nói này có nghĩa là mọi giảng viên và nhà nghiên cứu làm việc tại các trường, các viện đại học đều cần có các công bố khoa học để có thể tiếp tục tồn tại trong giới hàn lâm.

Nghiên cứu và công bố cũng là những yếu tố đánh giá trong bảng xếp hạng ARWU, và điều này đã làm cho các trường đại học cũng như các giảng viên, các nhà khoa học của Trung Quốc “điên cuồng” trong cuộc chạy đua công bố khoa học trong những năm qua. Nhưng sao lại “công bố đi rồi chết”? Đó là tựa của một bài viết vừa đăng hồi tháng 3/2010 trên tờ China Economic Review . Bài viết này (tựa tiếng Anh là Publish and perish) dường như đã điểm đúng tử huyệt của giáo dục đại học Trung Quốc hiện nay: nạn “tham nhũng học thuật” đang làm ô nhiễm trầm trọng môi trường học thuật của đất nước này.

Theo bài báo nói trên, trong một cuộc khảo sát do Bộ Khoa học và Công nghệ của Trung Quốc thực hiện từ năm 2006, có đến 60% các giáo sư của Trung Quốc thừa nhận đã sao chép các tác phẩm của người khác, đút lót tiền để được đăng bài trên tạp chí khoa học, hoặc khai man số bài báo khoa học của mình. Cũng theo bài báo, sự gian lận này không phải là không ai biết. Đã từng có nhiều lời than phiền cùng những lá đơn thỉnh nguyện của các trí thức kêu gọi các nhà lãnh đạo giáo dục Trung Quốc phải làm một điều gì đó để cải thiện tình hình. Nhưng những lời kêu gọi này đều bị bỏ ngoài tai. Chỉ đến khi những gian lận này bị phát hiện tại nước ngoài thì những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục của Trung Quốc mới bắt đầu có một vài động thái mạnh mẽ, chẳng hạn như đuổi việc các giảng viên đạo văn của người khác tại Đại học Vũ Hán vào năm 2007.

Tiếc thay, những động thái mạnh mẽ dù khá hiếm hoi như trên hầu như chẳng có tác động gì đến nạn tham nhũng học thuật đang hoành hành và không cách gì ngăn chặn nổi tại Trung Quốc. Ngoài việc đạo văn, thực chất là một hành động “ăn cướp/ăn cắp tài sản trí tuệ” của người khác, trước áp lực nặng nề của việc phải có công bố khoa học để tồn tại hoặc duy trì các vị trí đôi khi không tương xứng với tài năng, một số “nhà khoa học” Trung Quốc còn có các hành vi đáng lên án khác. Đó là: tạo ra những “công trình khoa học rác” với những số liệu giả và những kết luận vô căn cứ, hoặc phổ biến hơn, là dùng tiền để mua các bài viết, các luận án tiến sĩ, các công trình khoa học từ các “lò đạo văn” rồi công bố dưới tên mình. Một trong những nguyên nhân căn bản của việc này là áp lực khủng khiếp đối với các giảng viên là phải đạt được những chỉ tiêu khắt khe mà ARWU đã vô tình tạo ra: tỷ lệ công bố khoa học trên giảng viên.

Theo bài viết trên China Economic Review số tháng 3/2010 đã nhắc đến ở trên, nghiên cứu từ Trường Đại học Vũ Hán cho thấy trong vòng 3 năm qua, các nghiên cứu sinh và giáo sư của Trung Quốc đã bỏ ra đến 146 triệu US mua các “bài viết ma” để nộp làm luận án tiến sĩ hoặc công bố khoa học của mình. Nạn mua bán công trình khoa học đã thậm tệ đến nỗi tờ nhật báo China Daily của nhà nước Trung Quốc phải thốt lên: “Một số trí thức Trung Quốc ngày nay thực sự không còn biết hổ thẹn là gì nữa!” Hiện tượng này cũng được tờ AsiaOne, tờ báo mạng của công ty Singapore Press Holdings, nêu ra hồi tháng 3/2010 vừa qua trong bài viết có cái tựa dí dỏm là “’Đại nhảy vọt’ đã kích thích các khu ổ chuột trong giới học thuật” . Bài viết có những giòng “thú vị” mà đau xót sau đây: “Nhiều giáo sư và sinh viên [TQ] hoàn toàn không hổ thẹn về việc đạo văn của mình vì cho rằng ai cũng làm như thế. Thật lố bịch khi một bài báo khoa học trong ngành Y đã bị đạo văn đến 6 lần khác nhau với tổng số “đạo chích” lên đến 25 người!”

Phải làm gì bây giờ? Kỷ luật thật nặng, đuổi việc, tước bằng, cách chức, như đã bắt đầu xảy ra gần đây tại Trung Quốc? Tờ China Daily đưa ra một quan điểm khác, mới nhìn có vẻ bất ngờ nhưng nghĩ kỹ thì có lẽ hoàn toàn phù hợp với tình hình Trung Quốc và các quốc gia khác như Việt Nam, Mã Lai, nơi nhà nước can thiệp khá sâu vào công việc của các trường đại học, đó là: chấm dứt chế độ lương thưởng dựa trên thành tích công bố khoa học của các giáo sư. “Những giáo sư nào cảm thấy cần công bố thì cứ việc công bố, chứ không nên thúc ép họ công bố theo kiểu ngu xuẩn như lâu nay nữa,” tờ báo đã viết như vậy.

Đẳng cấp quốc tế: Giấc mộng không thành!
Như đã nêu ở trên, một loạt những dấu hiệu gần đây đã cho thấy giáo dục đại học TQ chưa thành công, thậm chí có thể nói là đã thất bại, trong tham vọng “tạo ra một số trường đại học đẳng cấp quốc tế”. Cho dù đó là ước mơ và là chỉ đạo của các vị lãnh đạo tối cao của đất nước này từ cuối thập niên 1990 mà hơn một thập niên nay các trường đại học của đất nước này đã miệt mài theo đuổi.

Vì sao có thể nói là giáo dục đại học của Trung Quốc đã thất bại trong giấc mơ đẳng cấp quốc tế? Đó là bởi vì cho đến nay, không những Trung Quốc chưa thể lọt vào top 200 của bảng xếp hạng ARWU, mà ngay cả điều kiện cơ bản là có được một đội ngũ các giáo sư, các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh giỏi chuyên môn và có đạo đức học thuật thì Trung Quốc cũng chưa làm được. Ngược lại, tham vọng đẳng cấp quốc tế của giới lãnh đạo chính trị đã gây ra nhiều sức ép lên giới học thuật, cộng với sự lẫn lộn giữa vị trí hành chính và vị thế chuyên môn của các vị nắm quyền quản lý trong các trường đại học, đã tạo ra tình trạng “tham nhũng học thuật” nặng nề và một “thị trường đen học thuật” nhộn nhạo láo nháo với các chợ luận văn, các bài báo ma, công trình giả/dỏm, luận văn mua vv hỗn loạn trong giáo dục đại học Trung Quốc mà hiện nay toàn thế giới đều biết rõ.

Tuy nhiên, đánh giá thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc chỉ thông qua số lượng công bố khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, các giải thưởng lớn về khoa học công nghệ, hay sự tồn tại của các trường đại học nghiên cứu có đẳng cấp quốc tế có lẽ là không chính xác. Bởi giáo dục đại học không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ở đỉnh cao, mà có lẽ quan trọng hơn, là nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Một quốc gia như Trung Quốc với trên một tỷ dân và một nền kinh tế mới nổi, đang chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thì trước hết cần có các trường đại học giảng dạy (teaching universities) tốt, còn việc xây dựng các đại học nghiên cứu có tầm cỡ có thể cạnh tranh với Mỹ có thể cũng chưa cần thiết. Cũng vậy, các giảng viên làm việc trong các trường đại học giảng dạy như vậy không nhất thiết phải là những người có nhiều công bố trên các tạp chí khoa học mà đa phần là của các nước tư bản phương Tây, vốn có một truyền thống học thuật rất khác với Trung Quốc.

Như vậy, phải chăng cần tìm hiểu về thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc ở trên một khía cạnh khác, ví dụ như trong việc đào tạo nhân lực cho xã hội? Để đánh giá điều này, dễ nhất là tìm hiểu xem các sinh viên tốt nghiệp từ các đại học của Trung Quốc họ làm gì, ở đâu, và có cuộc sống nghề nghiệp ra sao. Vậy thì đây …
---
Bạn đọc muốn biết ư, xem kỳ sau sẽ rõ! Kỳ 2 cũng sẽ được đăng trên Tạp chí Tia Sáng, sau 2 tuần nữa!

Sunday, April 18, 2010

Đẳng cấp quốc tế hay là sự hoang tưởng?

Tôi vừa đi dự Hội thảo về xếp hạng đại học tại Huế về, với nhiều suy nghĩ. Cũng định viết một ít về hội thảo này, nhưng vì đang bận quá nhiều việc tại cơ quan nên chưa thể viết.

Ngoài ra, do đã hứa với báo Tia Sáng, tôi đang dành thời gian để viết về sự khủng hoảng giáo dục đại học của Trung Quốc. Tôi cho rằng bài viết này thực sự cần thiết, vì VN cần học rất nhiều từ những thành công cũng như thất bại của người láng giềng khổng lồ này. Đặc biệt là vì có nhiều chính sách quốc gia dường như chúng ta đang học theo Trung Quốc, một đất nước có thể chế chính trị giống VN.

Tại sao tôi lại chọn viết về khủng hoảng giáo dục đại học của TQ? Có nhiều lý do, nhưng lý do gần nhất là lúc này trên báo chí chính thống của TQ đang có nhiều tin cho thấy giáo dục đại học của họ đang khủng hoảng, rất giống với VN mặc dù ở quy mô và mức độ khác ta.

Sự khủng hoảng này không làm tôi ngạc nhiên, vì tôi vẫn tin, như các nhà nghiên cứu giáo dục khác trên thế giới đã chỉ ra nhiều lần ở những nơi khác nhau, mô hình đại học mà chúng ta cần học tập là mô hình Anh-Mỹ, vì nó đã chứng tỏ được sự thành công của nó. Nhưng sự phát triển của giáo dục đại học Trung Quốc cũng làm cho nhiều người, trong đó có tôi, quan tâm theo dõi. Vì sự phát triển của nó dường như trái quy luật, nhưng vẫn có những thành tựu đáng kể?

Nay thì với những tư liệu tôi đã tìm được, đặc biệt là tư liệu lấy từ các nguồn chính thống của TQ, tôi tin là cách phát triển như vừa qua tại TQ hoàn toàn không bền vững. Ước mơ đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc hiện nay có vẻ như vẫn còn hết sức xa vời, gần như không tưởng. Cho đến nay, sau hơn 10 năm nỗ lực với những khoản đầu tư khổng lồ của chính phủ, TQ vẫn chưa có được một trường đại học lọt trong top 200! Mà TQ là một cường quốc kinh tế đang nổi lên dẫn đầu thế giới.

Vậy mà hôm nay, trên báo CAND, người ta lại tiếp tục đưa câu hỏi "Bao giờ VN có trường đại học trong tốp 200?", ở đây. Tất nhiên, bài báo không nói rằng việc lọt vào tốp 200 là dễ dàng. Nhưng đặt câu hỏi như vậy tức thừa nhận câu hỏi đó là đáng hỏi. Trong khi theo tôi, hiện nay một câu hỏi như vậy cho VN có lẽ là ... hơi ngây thơ. Vì lọt vào top 200 thế giới đối với một nước như VN sẽ là một hoang tưởng, và những thành tựu về chất chỉ có thể có sớm nhất là khoảng 25 năm nữa - tức cần thêm một thế hệ.

Tôi nghĩ, giáo dục là việc của trăm năm, thì không bao giờ có thể nóng vội. Tất nhiên không phải vì thế mà ta không nỗ lực. Nhưng không phải nỗ lực theo kiểu ra mặt trận, đánh nhanh rút gọn, và có thể chiến thắng lẫy lừng. Mà phải kiên trì từng ngày từng giờ, và rất lâu dài, không ngừng nghỉ và không mệt mỏi. Thì mới hy vọng có được một nền giáo dục ra hồn. Và nền giáo dục đó trước hết phải biết nhìn vào bên trong, vào nhu cầu của chính mình trong điều kiện của chính mình. Chứ không phải cứ chăm chăm nhìn ra bên ngoài để bắt chước (một cách láu cá!), hòng nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ (cho xong tội!), để rồi nghỉ khỏe!

Nên đành đăng lên đây một phần của bài viết dành cho Tia Sáng, dù đã định để dành riêng cho Tia Sáng và chỉ đăng lên blog sau khi Tia Sáng đăng. Để chia sẻ ý tưởng với mọi người. Vì thực sự tôi bức xúc quá khi vẫn tiếp tục nghe nói về xếp hạng đại học và giấc mơ top 200!

Mọi người đọc dưới đây, và góp ý, bình luận nhé. Enjoy!

---
"Trung Quốc không có nổi một trường đại học đẳng cấp quốc tế!"
(Vũ Thị Phương Anh, trích trong bài viết mang tên "Khủng hoảng giáo dục đại học tại TQ", viết cho báo Tia Sáng. Sử dụng xin hỏi ý kiến tác giả, vtpanh@gmail.com)


Cái tựa nói trên là câu phát biểu vừa được đăng ngày 18/4/2010 trên trang chinadaily của Trung Quốc trong mục “trích dẫn trong tuần” (weekly quote) . Tác giả của nó là của nguyên hiệu trưởng Trường đại học Bắc Kinh, ngôi trường luôn luôn dẫn đầu danh sách xếp hạng các trường đại học của Trung Quốc. “Đẳng cấp quốc tế” ở đây cần được hiểu là 200 vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng đại học thế giới (ARWU) của Trường Đại học Giao thông Thượng Hải (SJTU).

Việc không có tên trong 200 vị trí đầu của ARWU là việc rất bình thường đối với tuyệt đại đa số các trường đại học trên khắp thế giới. Có lẽ ngoài Trung Quốc (và một vài quốc gia đua đòi theo giấc mơ “đại học đẳng cấp quốc tế” của Trung Quốc) thì bảng danh sách này không có ý nghĩa gì lắm đối với các vị nguyên thủ quốc gia. Tổng số trường đại học trên thế giới hiện nay theo ước tính thận trọng nhất cũng đã lên đến cả chục ngàn trường (chỉ riêng Mỹ đã có hơn 4000 trường đại học và cao đẳng). Con số 200 so với trên 10 ngàn trường là tỷ lệ chưa đến 2/100, một tỷ lệ đủ nhỏ để người ta có thể xem nó như một ngoại lệ hơn là một quy luật.

Nhưng đối với Trung Quốc thì hoàn toàn khác. Bảng xếp hạng nổi tiếng toàn cầu kia, thật tự hào mà cũng thật hổ thẹn, là sản phẩm do các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra cho chính giáo dục đại học Trung Quốc. Theo Nian Cai Liu , tác giả của ARWU, mục đích của bảng xếp hạng này là giúp các trường đại học của Trung Quốc hiện thực hóa ước mơ và cũng là chỉ đạo của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc: Phải xây dựng cho được một số trường đại học đẳng cấp quốc tế tại Trung Quốc.

Từ lúc ra đời vào năm 2004 đến nay, việc có được một vị trí cao trong bảng xếp hạng ARWU đã trở mục tiêu phấn đấu của giáo dục đại học Trung Quốc, và là cơ sở để quyết định mức độ đầu tư của nhà nước cho các trường đại học trọng điểm. Hàng núi tiền đã được nhà nước Trung Quốc liên tục đổ xuống cho các trường đại học được chọn tại Trung Quốc để dành một vị trí cao trong trong hơn một thập niên vừa qua. Nhưng dù cố gắng đến mức nào thì vị trí xếp hạng của các trường đại học của Trung Quốc vẫn cứ quanh quẩn mức khởi đầu khi bảng xếp hạng này mới ra đời, ở vị trí 300-400 của thế giới. Trong khi đó, nhiều trường đại học của Nhật từ lâu đã có mặt ở danh sách 100 trường đầu tiên. Và, mỉa mai thay, chính Đài Loan cũng có được một trường đứng ở vị trí khá cao trong danh sách các trường đại học đẳng cấp quốc tế do TQ tạo ra để đo mức độ thành công của những nỗ lực của chính mình.

Đó là lý do tại sao việc không có tên trong các vị trí đầu tiên của một bảng xếp hạng ARWU đã được các nhà lãnh đạo chính trị của Trung Quốc xem là biểu hiện của sự không thành công, thậm chí là dấu hiệu ban đầu của khủng hoảng. Nhưng nếu bỏ qua danh sách này như một ước mơ đẹp nhưng không hiện thực, thì vẫn còn rất nhiều dấu hiệu khủng hoảng khác giờ đây đang bộc lộ ra dồn dập trên nhiều khía cạnh. Chúng đang tạo ra một hình ảnh khác về giáo dục đại học Trung Quốc, không giống với ảo tưởng về thành tựu đáng tự hào như mọi người vẫn tin tưởng lâu nay.
(còn tiếp)