Tựa của entry này là tựa một bài viết tiếng Anh của Lloyd Armstrong - tựa gốc là "Coveting the US model? Be careful what you wish for" - được đăng trên Guardian của Anh ngày 24/3/2011 vừa qua. Có thể tìm đọc bài gốc ở đây.
Trước hết, xin nói về Armstrong. Ông là tác giả của một trang blog mà tôi rất hay đọc, chuyên viết về giáo dục đại học Mỹ, là trang Changing Higher Education, tạm dịch là "Đổi mới giáo dục đại học", có thể tìm thấy ở đây. Theo lời tự giới thiệu trên blog của mình, ông nguyên là giáo sư của khoa giáo dục trường University of Southern California, và đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong trường, trong đó cao nhất là chức phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo. Lý lịch khoa học của ông thật đáng nể: tốt nghiệp cử nhân tại MIT, tiến sĩ tại UC Berkeley, postdoc tại Lawrence Berkeley Laboratory, và giảng dạy rồi trở thành giáo sư tại John Hopkins. Như vậy, rõ ràng là những kinh nghiệm và phán đoán của ông về những chỗ nhược của đại học Mỹ hẳn không thể bị xem là thiếu sót hoặc phiến diện được, vì hơn ai hết chính ông phải là người hiểu rõ nhất về những cái hay, cái đẹp của nền giáo dục tinh hoa của Mỹ.
Thế tại sao ông lại viết bài chê đại học Mỹ quá vậy, như có thể thấy qua cái tựa của bài viết mà tôi đang giới thiệu? Trước hết, cần khẳng định rằng ông hoàn toàn không phủ nhận những thành tựu của nền giáo dục Mỹ. Ngay trong phần mở đầu bài viết của mình ông đã dành đến 2 đoạn không ngắn dể điểm qua những thành tựu của giáo dục đại học Mỹ và nguyên nhân của những thành tựu đó.
Nhưng ... - vâng, chữ nhưng đáng ghét - giáo dục Mỹ hiện nay đang phải đối mặt với khá nhiều vấn đề, mà nguyên nhân cơ bản của nó, theo Armstrong, chính là vì chính phủ đang cắt giảm nguồn ngân sách cấp phát cho các trường đại học, khiến cho quá trình "privatization" tức tư nhân hóa trong giáo dục đại học đang diễn ra mạnh mẽ, với những hệ quả đương nhiên của nó.
(Mở ngoặc nói thêm: một quá trình tương tự như thế cũng đang diễn ra ở VN; tuy nhiên, ở VN thì người ta không gọi nó là "tư nhân hóa" mà lại gọi bằng cách ngược lại là "xã hội hóa", và dịch nó ra thành "socialization". Thế nhưng, socialization trong tiếng Anh-Mỹ thì có nghĩa là nhà nước sử dụng thuế của dân để hỗ trợ cho những dịch vụ công nào đó - đại khái thế, tôi viết chưa chính xác và sẵn sàng nhận những trao đổi thêm. Chính vì vậy mà mới có chuyện khôi hài sau đây mà tôi mới nghe một người bạn kể lại: Khi một giáo sư Mỹ đến thăm một trường đại học của VN, có đi tham quan đến khu ký túc xá "xã hội hóa" theo nghĩa của VN, tức là cho tư nhân làm, thì người bạn của tôi đã sử dụng từ "socialization", và vị giáo sư kia hoàn toàn không hiểu! Khi người bạn tôi giải thích nó là như thế, như thế, thì ông rất buồn cười, và sau đó khi trên dường về, đi ngang qua khu KTX mà ông đã được giới thiệu, ông đã rất thú vị chỉ vào khu nhà ấy mà nói đại khái "kia, khu nhà "xã hội hóa" của các bạn đây rồi!".
Tóm lại, đối với tai một người Mỹ thì cách gọi tư nhân hóa thành ra xã hội hóa của VN nghe có vẻ rất ... mỉa mai, thậm chí dối trá, vì ở Mỹ khi nói "socialization" thì người ta nghĩ đến việc nhà nước sử dụng ngân sách để hỗ trợ cho dân chúng (theo kiểu xã hội chủ nghĩa mà lại). Trong khi đó, ngay trên một đất nước xã hội chủ nghĩa như chúng ta thì xã hội hóa lại có nghĩa hoàn toàn ngược lại: nhà nước kiên định với CNXH là VN sẽ không lo nữa vì không đủ sức, thôi thì toàn xã hội, ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, và cả cuốc xẻng, gậy gộc nữa, chúng ta cùng nhau lo (tiền) cho giáo dục theo kiểu của mình, và cách dễ nhất là dùng user-pay principle!)
Tôi phải đi làm, nên không viết thêm được nữa, tạm ngưng ở đây, hy vọng tối về có thì giờ viết tiếp. Nhưng các bạn nên đọc bài gốc đi, rất hay, đặc biệt là những nhà làm chính sách, những nhà lãnh đạo giáo dục, và cả những nhà nghiên cứu nữa, vì khi đưa ra những lời tham mưu mà không cân nhắc mọi khía cạnh của vấn đề thì cũng giống như đưa một tấm bản đồ sai cho tài xế, và sinh mạng của bao nhiêu hành khách đều nằm trong tay người tài xế lái xe với tấm bản đồ sai đó. Vô cùng nguy hiểm, phải không các bạn?
Showing posts with label world hied news. Show all posts
Showing posts with label world hied news. Show all posts
Wednesday, March 30, 2011
Saturday, March 19, 2011
"Trường đại học giả mạo của Mỹ gây rắc rối tại Ấn Độ"
Tựa của entry này là một phần của cái tựa tiếng Anh của bài viết của GS Altbach, đã đăng trên tờ Inside Higher Education cách đây ít lâu, ở đây. Bài này đã được dịch kèm theo lời giới thiệu và gửi cho Tia Sáng, đã đăng trên số mới nhất dưới cái tựa là "Trò lừa đảo của Tri-Valley". Có thể đọc bản đã biên tập ở đây.
Dưới đây là bản dịch kèm lời giới thiệu chưa qua biên tập.
----------------
Trường đại học giả mạo của Mỹ gây rắc rối tại Ấn Độ -- và những vấn đề quốc tế hóa trong giáo dục đại học
Philip G. Altbach
Vũ Kim Khôi dịch
Lời giới thiệu
Một vụ tai tiếng gần đây liên quan đến việc “lừa đảo” trong tuyển sinh quốc tế của một “trường đại học” tại Mỹ đã làm xôn xao dư luận, và có những ảnh hưởng xấu đến việc mở rộng quốc tế hóa của các trường đại học Mỹ. Theo tin của tờ Asia Sentinel ngày 7/2/2011, “trường đại học” không được kiểm định có tên Tri-Valley với sức chứa khoảng … 30 sinh viên đã tuyển hơn 1500 sinh viên Ấn Độ và hỗ trợ làm thủ tục visa cho họ vào Mỹ, với những mục đích hoàn toàn không liên quan gì đến việc học hành. Một cách vắn tắt, Tri-Valley thực chất chỉ là một đường giây cung cấp dịch vụ nhập cư trái phép vào Mỹ mà thôi. Sau khi vụ việc bị vỡ lở, nhà chức trách Mỹ đã đóng cửa ngôi trường giả mạo này, đồng thời thực hiện những biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối với số sinh viên mà Tri-Valley đã đưa sang Mỹ, trong đó biện pháp gây tranh cãi nhất là gắn chip theo dõi hành tung của họ. Vụ tai tiếng này cũng đã được Vietnamnet đưa tin vào ngày 13/2/2011 .
Phía Ấn Độ tất nhiên là phản ứng khá gay gắt với sự kiện đó, đặc biệt là việc gắn chip sinh viên – một việc thường chỉ xảy ra đối với những tội phạm nguy hiểm. Giới học thuật Ấn cho rằng các sinh viên nói trên hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì vì họ chỉ là nạn nhân của sự lừa đảo do Tri-Valley gây ra, và cần phải được giúp đỡ để giảm thiểu những thiệt hại mà họ đã phải chịu do việc Tri-Valley bị đóng cửa. Ngoài ra, phía Ấn Độ cũng cảnh báo rằng những vụ việc như trên nếu không thuyên giảm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng sinh viên Ấn muốn vào Mỹ du học.
Ai đúng, ai sai trong việc này? Phải chăng các sinh viên Ấn Độ trong vụ việc đã nêu chỉ là những nạn nhân cần được giúp đỡ, và hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì về các hành vi của mình? Những bài học cần rút ra cho các bên có liên quan là gì? Chúng tôi xin giới thiệu góc nhìn của một học giả nổi tiếng của Hoa Kỳ, giáo sư và nhà nghiên cứu giáo dục đại học quốc tế Philip Altbach về vấn đề này, vì những vụ việc tương tự như vụ Tri-Valley hoàn toàn cũng có thể xảy ra ở Việt Nam. Bài viết của Philip Altbach đã đăng trên trang The World View của tờ Inside Higher Education ngày 21/2/2011 vừa qua.
------
Nếu sự việc không nghiêm trọng đến thế thì nó chỉ đáng xem là một tình huống nực cười. Một trường đại học giả mạo của Hoa Kỳ đã tuyển hơn 1500 sinh viên từ Ấn Độ và tạo điều kiện cho họ xin visa vào Hoa Kỳ. Vấn đề là các sinh viên này không hề theo học tại trường, thậm chí chẳng cư trú ở khu vực gần trường nữa, và điều này cuối cùng đã được các viên chức chính phủ Hoa Kỳ phát hiện và họ đã xiết chặt quản lý đối với các sinh viên này. Sự kiện trên đã được nêu trên tờ Chronicle of Higher Education số ra ngày 02/02/2011. Theo tạp chí này, trường Đại học Tri-Valley toạ lạc tại phía Bắc tiểu bang California và là một trường đại học không được kiểm định, có quy mô khoảng 30 sinh viên. Tuy nhiên ngôi trường này lại tuyển đến 1500 sinh viên Ấn Độ. Khi các viên chức di trú và hải quan của Hoa Kỳ phát hiện ra thực trạng trên, họ liền tập trung số sinh viên này lại và thậm chí gắn cả thiết bị theo dõi trên nhiều người trong số này. Đến đây thì sự việc trên đã đập vào mắt giới báo chí Ấn Độ, và họ đã liên tục chỉ trích giới chức trách Hoa Kỳ vì những hành động vô nhân đạo, với ngụ ý rằng các sinh viên đó chỉ là những nạn nhân vô tội.
Trong quốc hội Ấn Độ, vốn hiện đang tranh cãi về đạo luật cho phép mở cửa thị trường giáo dục đại học tại quốc gia này, đang một số người đặt câu hỏi về việc làm cách nào Ấn Độ có thể tự bảo vệ mình trước các trường đại học “bay đêm” như trên. Vụ việc của trường Đại học Tri-Valley diễn ra ngay sau sự cố kỳ thị người Ấn Độ tại Úc, cùng với việc xem xét lại chính sách mở cửa của quốc gia này dành cho sinh viên nước ngoài cũng đã gây ra những phẫn nộ tại Ấn Độ.Trong vụ việc tại Úc, người ta đã khám phá ra rằng nhiều thẩm mỹ viện và những cái-gọi-là cơ sở đào tạo sau trung học đang tiếp nhận các sinh viên Ấn Độ, nhưng không phải để đến đây học tập mà để làm việc trái phép.
Những sự cố trên và nhiều sự cố khác đang làm dấy lên nhiều vấn đề nghiêm trọng liên quan đến vấn đề quốc tế hoá trong giáo dục đại học. Như Uwe Brandenburg và Hans de Wit đã nêu ra trong ấn phẩm International Higher Education , chúng ta hiện đang đối mặt với sự khủng hoảng về quốc tế hoá – trong một số khía cạnh, hiện nay giai đoạn thương mại hóa trong giáo dục đại học đang dần thay thế cho thời kỳ lý tưởng hóa trước đây, và cùng với nó là đủ mọi vấn đề mà sự thương mại hóa thiếu kiểm soát có thể đem lại. Nền kinh tế thế giới vừa qua đã hứng chịu hậu quả từ những giao dịch thả nổi và không kiểm soát trong đợt suy thoái toàn cầu vừa qua. “Thị trường tự do” trong giáo dục đại học gần như cũng đang đứng trước tình cảnh tương tự - xã hội (sinh viên, phụ huynh, gia đình và cả các trường) không có khả năng đưa ra những quyết định sáng suốt do tồn tại thực trạng thiếu hụt sự minh bạch cũng như kiểm soát đối với các trường lừa đảo, những trường vốn có thể dễ dàng trà trộn vào số đông các trường đang hoạt động hợp pháp.
Dưới đây là một số điều cần suy nghĩ từ vụ việc trường Tri-Valley:
● Đối với Ấn Độ, sự cố trên cho thấy những trường đại học nước ngoài muốn thâm nhập vào thị trường giáo dục đại học Ấn Độ và đang thực hiện tuyển sinh là những trường không đáng tin cậy. Chúng ta cần phải cẩn trọng.
● Ai là người đứng ra tuyển sinh cho trường Tri-Valley? Phải chăng là các cơ quan môi giới và nhân viên tuyển sinh? Những bài phóng sự trên báo cho thấy rằng ngay chính các sinh viên Ấn Độ cũng tham gia vào công tác chiêu sinh để được trả tiền.
● Phản ứng từ các cấp có thẩm quyền của Hoa Kỳ chẳng có gì đáng ngạc nhiên hay gây shock. Các “sinh viên” rõ ràng vi phạm các điều luật về nhập cư của Hoa Kỳ, và việc kiểm soát họ không phải là điều vô lý – như quan điểm của một số nhà phê bình Ấn Độ. Ít ra là các sinh viên đó không bị đương nhiên trục xuất hay bị tù.
● Uy tín của giáo dục đại học Hoa Kỳ tại Ấn Độ đã bị huỷ hoại, ít ra là ở một mức độ nhất định. Giới chức trách và các tổ chức kiểm định Hoa Kỳ nên cảnh giác hơn với những “xưởng cấp bằng”.
Sự cố trường Tri-Valley một lần nữa cho thấy rằng, ít nhất là trong lãnh vực giáo dục đại học, thị trường tự do không kiểm soát chẳng những không đảm bảo được hoạt động chất lượng cao hay đạt chuẩn, mà còn khiến cho các cá nhân thiếu thông tin dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết.
Dưới đây là bản dịch kèm lời giới thiệu chưa qua biên tập.
----------------
Trường đại học giả mạo của Mỹ gây rắc rối tại Ấn Độ -- và những vấn đề quốc tế hóa trong giáo dục đại học
Philip G. Altbach
Vũ Kim Khôi dịch
Lời giới thiệu
Một vụ tai tiếng gần đây liên quan đến việc “lừa đảo” trong tuyển sinh quốc tế của một “trường đại học” tại Mỹ đã làm xôn xao dư luận, và có những ảnh hưởng xấu đến việc mở rộng quốc tế hóa của các trường đại học Mỹ. Theo tin của tờ Asia Sentinel ngày 7/2/2011, “trường đại học” không được kiểm định có tên Tri-Valley với sức chứa khoảng … 30 sinh viên đã tuyển hơn 1500 sinh viên Ấn Độ và hỗ trợ làm thủ tục visa cho họ vào Mỹ, với những mục đích hoàn toàn không liên quan gì đến việc học hành. Một cách vắn tắt, Tri-Valley thực chất chỉ là một đường giây cung cấp dịch vụ nhập cư trái phép vào Mỹ mà thôi. Sau khi vụ việc bị vỡ lở, nhà chức trách Mỹ đã đóng cửa ngôi trường giả mạo này, đồng thời thực hiện những biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối với số sinh viên mà Tri-Valley đã đưa sang Mỹ, trong đó biện pháp gây tranh cãi nhất là gắn chip theo dõi hành tung của họ. Vụ tai tiếng này cũng đã được Vietnamnet đưa tin vào ngày 13/2/2011 .
Phía Ấn Độ tất nhiên là phản ứng khá gay gắt với sự kiện đó, đặc biệt là việc gắn chip sinh viên – một việc thường chỉ xảy ra đối với những tội phạm nguy hiểm. Giới học thuật Ấn cho rằng các sinh viên nói trên hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì vì họ chỉ là nạn nhân của sự lừa đảo do Tri-Valley gây ra, và cần phải được giúp đỡ để giảm thiểu những thiệt hại mà họ đã phải chịu do việc Tri-Valley bị đóng cửa. Ngoài ra, phía Ấn Độ cũng cảnh báo rằng những vụ việc như trên nếu không thuyên giảm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng sinh viên Ấn muốn vào Mỹ du học.
Ai đúng, ai sai trong việc này? Phải chăng các sinh viên Ấn Độ trong vụ việc đã nêu chỉ là những nạn nhân cần được giúp đỡ, và hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì về các hành vi của mình? Những bài học cần rút ra cho các bên có liên quan là gì? Chúng tôi xin giới thiệu góc nhìn của một học giả nổi tiếng của Hoa Kỳ, giáo sư và nhà nghiên cứu giáo dục đại học quốc tế Philip Altbach về vấn đề này, vì những vụ việc tương tự như vụ Tri-Valley hoàn toàn cũng có thể xảy ra ở Việt Nam. Bài viết của Philip Altbach đã đăng trên trang The World View của tờ Inside Higher Education ngày 21/2/2011 vừa qua.
------
Nếu sự việc không nghiêm trọng đến thế thì nó chỉ đáng xem là một tình huống nực cười. Một trường đại học giả mạo của Hoa Kỳ đã tuyển hơn 1500 sinh viên từ Ấn Độ và tạo điều kiện cho họ xin visa vào Hoa Kỳ. Vấn đề là các sinh viên này không hề theo học tại trường, thậm chí chẳng cư trú ở khu vực gần trường nữa, và điều này cuối cùng đã được các viên chức chính phủ Hoa Kỳ phát hiện và họ đã xiết chặt quản lý đối với các sinh viên này. Sự kiện trên đã được nêu trên tờ Chronicle of Higher Education số ra ngày 02/02/2011. Theo tạp chí này, trường Đại học Tri-Valley toạ lạc tại phía Bắc tiểu bang California và là một trường đại học không được kiểm định, có quy mô khoảng 30 sinh viên. Tuy nhiên ngôi trường này lại tuyển đến 1500 sinh viên Ấn Độ. Khi các viên chức di trú và hải quan của Hoa Kỳ phát hiện ra thực trạng trên, họ liền tập trung số sinh viên này lại và thậm chí gắn cả thiết bị theo dõi trên nhiều người trong số này. Đến đây thì sự việc trên đã đập vào mắt giới báo chí Ấn Độ, và họ đã liên tục chỉ trích giới chức trách Hoa Kỳ vì những hành động vô nhân đạo, với ngụ ý rằng các sinh viên đó chỉ là những nạn nhân vô tội.
Trong quốc hội Ấn Độ, vốn hiện đang tranh cãi về đạo luật cho phép mở cửa thị trường giáo dục đại học tại quốc gia này, đang một số người đặt câu hỏi về việc làm cách nào Ấn Độ có thể tự bảo vệ mình trước các trường đại học “bay đêm” như trên. Vụ việc của trường Đại học Tri-Valley diễn ra ngay sau sự cố kỳ thị người Ấn Độ tại Úc, cùng với việc xem xét lại chính sách mở cửa của quốc gia này dành cho sinh viên nước ngoài cũng đã gây ra những phẫn nộ tại Ấn Độ.Trong vụ việc tại Úc, người ta đã khám phá ra rằng nhiều thẩm mỹ viện và những cái-gọi-là cơ sở đào tạo sau trung học đang tiếp nhận các sinh viên Ấn Độ, nhưng không phải để đến đây học tập mà để làm việc trái phép.
Những sự cố trên và nhiều sự cố khác đang làm dấy lên nhiều vấn đề nghiêm trọng liên quan đến vấn đề quốc tế hoá trong giáo dục đại học. Như Uwe Brandenburg và Hans de Wit đã nêu ra trong ấn phẩm International Higher Education , chúng ta hiện đang đối mặt với sự khủng hoảng về quốc tế hoá – trong một số khía cạnh, hiện nay giai đoạn thương mại hóa trong giáo dục đại học đang dần thay thế cho thời kỳ lý tưởng hóa trước đây, và cùng với nó là đủ mọi vấn đề mà sự thương mại hóa thiếu kiểm soát có thể đem lại. Nền kinh tế thế giới vừa qua đã hứng chịu hậu quả từ những giao dịch thả nổi và không kiểm soát trong đợt suy thoái toàn cầu vừa qua. “Thị trường tự do” trong giáo dục đại học gần như cũng đang đứng trước tình cảnh tương tự - xã hội (sinh viên, phụ huynh, gia đình và cả các trường) không có khả năng đưa ra những quyết định sáng suốt do tồn tại thực trạng thiếu hụt sự minh bạch cũng như kiểm soát đối với các trường lừa đảo, những trường vốn có thể dễ dàng trà trộn vào số đông các trường đang hoạt động hợp pháp.
Dưới đây là một số điều cần suy nghĩ từ vụ việc trường Tri-Valley:
● Đối với Ấn Độ, sự cố trên cho thấy những trường đại học nước ngoài muốn thâm nhập vào thị trường giáo dục đại học Ấn Độ và đang thực hiện tuyển sinh là những trường không đáng tin cậy. Chúng ta cần phải cẩn trọng.
● Ai là người đứng ra tuyển sinh cho trường Tri-Valley? Phải chăng là các cơ quan môi giới và nhân viên tuyển sinh? Những bài phóng sự trên báo cho thấy rằng ngay chính các sinh viên Ấn Độ cũng tham gia vào công tác chiêu sinh để được trả tiền.
● Phản ứng từ các cấp có thẩm quyền của Hoa Kỳ chẳng có gì đáng ngạc nhiên hay gây shock. Các “sinh viên” rõ ràng vi phạm các điều luật về nhập cư của Hoa Kỳ, và việc kiểm soát họ không phải là điều vô lý – như quan điểm của một số nhà phê bình Ấn Độ. Ít ra là các sinh viên đó không bị đương nhiên trục xuất hay bị tù.
● Uy tín của giáo dục đại học Hoa Kỳ tại Ấn Độ đã bị huỷ hoại, ít ra là ở một mức độ nhất định. Giới chức trách và các tổ chức kiểm định Hoa Kỳ nên cảnh giác hơn với những “xưởng cấp bằng”.
Sự cố trường Tri-Valley một lần nữa cho thấy rằng, ít nhất là trong lãnh vực giáo dục đại học, thị trường tự do không kiểm soát chẳng những không đảm bảo được hoạt động chất lượng cao hay đạt chuẩn, mà còn khiến cho các cá nhân thiếu thông tin dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết.
Wednesday, March 16, 2011
"Cái giá phải trả cho thành tích học tập ở châu Á"
Bài dịch và giới thiệu dưới đây tôi đã gửi cho Tia Sáng và đã được đăng lên trên trang mạng của tờ báo này với đôi chút biên tập lại. Còn dưới đây là phần nguyên gốc của tôi. Các bạn có thể đọc bản đã biên tập trên Tia Sáng ở đây.
-----------------
Cái giá phải trả cho thành tích học tập ở Châu Á
Walt Gardner
Phương Anh dịch và giới thiệu
Dư luận Hoa Kỳ gần đây như sôi sục lên vì sự trỗi dậy của giáo dục Trung Quốc, thông qua hai sự kiện nổi bật thu hút rất nhiều giấy mực của giới truyền thông Mỹ. Đầu tiên là vị trí quán quân của học sinh Thượng Hải trong kỳ thi PISA, rồi liền sau đó cuốn sách nổi tiếng của Amy Chua, nữ giáo sư đại học Yale người Mỹ gốc Hoa với nhận định rằng chính cách dạy con khắt khe của người Hoa đã tạo ra những học sinh có thành tích học tập xuất sắc.
Trước những sự kiện trên, cả nước Mỹ hiện đang lo lắng rằng trí hàng đầu thế giới của họ dường như đang bị đe dọa nặng nề bởi một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh. Phải chăng nước Mỹ cần xem xét lại phương pháp giáo dục của mình, và nên bắt chước cách làm của Trung Quốc? Nhiều nhà lãnh đạo chính trị của Mỹ dường như đang có suy nghĩ như vậy, trong đó có cả Tổng thống Obama, như ta có thể nhận thấy qua bài diễn thuyết hàng năm của Tổng thống trước Quốc hội Mỹ “The State of the Union” vào ngày 26/1/2011 vừa qua.
Trong bài viết đăng ngày 4/2/2011 trên blog “Reality Check” (tạm dịch: Kiểm tra hiện trạng giáo dục”, một trang blog nổi tiếng về các vấn đề giáo dục của tờ Tuần Giáo dục (Education Week) của Hoa Kỳ, Walt Gardner đã đưa ra một phân tích khác về sự thành công của mô hình giáo dục châu Á. Bài viết là một lời cảnh báo đối với chính phủ Hoa Kỳ về những rủi ro tiềm ẩn của mô hình giáo dục châu Á, cho dù nó cũng đã giúp cho một số các quốc gia châu Á đạt được những thành tựu to lớn.
Một bài viết rất đáng đọc trong tình hình “bệnh thành tích” vẫn còn là một căn bệnh dai dẳng chưa thể trị dứt của giáo dục Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến các độc giả.
-----------------------------
Nếu như có ai không nhớ điều này, thì xin nhắc rằng châu Á luôn đứng ở đầu bảng hoặc ít ra là những vị trí đầu tiên trong mọi bảng xếp hạng thành tích học tập. Hai sự kiện gần đây đủ chứng tỏ điều này: (1) học sinh thành phố Thượng Hải chiếm vị trí số 1 trong kỳ thi học sinh quốc tế có tên là PISA (Program for International Student Assessment), và (2) bài viết có tựa đề “Chiến ca của bà mẹ hổ” của Amy Chua trên tờ Wall Street Journal có khiến trang số lượng truy cập trên trang web nhiều hơn bất kỳ chủ đề nào khác trong suốt lịch sử tồn tại của nó .
Nhưng khi nói đến những thành tựu rực rỡ của giáo dục các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, người ta thường quên không nhắc đến cái giá rất đắt mà học sinh các nước này phải trả. Có thể nhận ra điều này qua hai cách khác nhau.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Trung Quốc có tỷ lệ phụ nữ tự tử cao nhất thế giới. Hàn Quốc thì có tỷ lệ tự tử cao nhất trong các nước công nghiệp, còn Nhật Bản cũng không xa mấy ở phía sau. Sẽ có những người lập luận rằng mối tương quan đó không phải là nhân quả. Họ cho rằng không thể dùng mối tương quan này để chứng minh rằng áp lực phải thành công trong học tập đã gây ra những thảm kịch vừa nêu. Họ nói thế có lẽ cũngđúng.
Tuy nhiên, hoàn toàn có thể chứng minh rằng một hiện tượng đáng lo ngại tương tự đang diễn ra ở Mỹ. Một cuộc khảo sát trên 200.000 sinh viên toàn thời gian tại các trường đại học cho thấy sức khỏe cảm xúc của tân sinh viên đang ở mức thấp nhất kể từ khi số liệu về vấn đề này bắt đầu được thu thập cách đây một phần tư thế kỷ trước, như bài viết đã đăng trên tờ New York Times ngày 26/1 vừa qua cho biết.
Cuộc điều tra có tên “Sinh viên Mỹ năm thứ nhất: các mức chuẩn quốc gia mùa thu năm 2010” được đánh giá cao do kích thước mẫu lớn và độ dài của thời gian thu thập dữ liệu. Kết quả của cuộc điều tra chỉ ra rằng sinh viên năm thứ nhất hiện nay đã rất căng thẳng và chán nản, có lẽ vì họ bị áp lực quá lớn do món nợ vay để học đại học trong khi triển vọng việc làm thì ảm đạm. Tôi không nói rằng những yếu tố này cuối cùng sẽ làm họ phải tự tử, nhưng rõ ràng đây là những dấu hiệu cảnh báo rằng không thể bỏ qua.
Các bằng chứng vừa nêu từ châu Á và từ Mỹ dẫn đến một câu hỏi lớn hơn, là phải chăng nước Mỹ chúng ta nên bắt chước tính cạnh tranh cao độ của châu Á? Bài phát biểu vào tháng 1/2011 của Tổng thống Obama nêu rõ rằng cạnh tranh là điều cần thiết nếu Hoa Kỳ muốn tiếp tục duy trì địa vị là một cường quốc kinh tế. Nhưng tôi tự hỏi không biết Tổng thống có nhận ra mối nguy hiểm tiềm ẩn trong lời phát biểu của mình khi áp dụng tính cạnh tranh đó vào trong lãnh vực giáo dục hay chăng? Liệu có giải thưởng nào có giá trị lớn lao hơn cái nỗi đau mất con mà các bậc phụ huynh phải gánh chịu nếu chẳng may con mình tự tử vì không chịu nổi áp lực? Liệu có thành tích nào có thể giúp các bậc phụ huynh nguôi bớt nỗi buồn đó chăng? Thật đau buồn khi con cái phải chịu tang cha mẹ, nhưng nỗi đau đó sẽ trở thành không chịu đựng nổi nếu cha mẹ phải để tang con. Rõ ràng những kết quả đạt được về mặt trí tuệ là quan trọng. Nhưng còn những kết quả đạt được về mặt cảm xúc thì sao? Chẳng lẽ chúng không quan trọng chút nào ư?
Nhật Bản là một ví dụ điển hình. Mặc dù học sinh Nhật học rất tốt môn các toán và khoa học, nhưng đa số các em cho biết đã hoàn toàn mất hết hứng thú đối với các môn này. Một cuộc khảo sát về hứng thú học tập do Hiệp hội đánh giá thành tích học tập quốc tế thực hiện cho thấy Nhật Bản xếp hạng thứ 36 trong số 37 quốc gia đối với môn toán và xếp hạng thứ 22 trong số 23 quốc gia đối với môn khoa học. Theo tôi, điều này cho thấy thành tích của học sinh Nhật chẳng qua chỉ là những thắng lợi vô nghĩa mà thôi. Liệu chúng ta đạt được điều gì khi tạo ra những học sinh đạt được điểm cao trong các bài trắc nghiệm nhưng lại bị chấm điểm thấp về thái độ tích cực học tập?
Ngày hôm nay, chúng ta ngưỡng mộ Trung Quốc vì những thành tích giáo dục mà họ đạt được. BIết đâu ngày mai chúng ta lại chửi rủa họ vì những thiệt hại mà họ đã gây ra cho cả một thế hệ trẻ em. Tôi hy vọng Hoa Kỳ sẽ nhận ra những rủi ro tiềm ẩn trước khi quyết định sẽ học tập từ mô hình châu Á. Vì chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm về lựa chọn của chính mình – Caveat Emptor!
-----------------------
-----------------
Cái giá phải trả cho thành tích học tập ở Châu Á
Walt Gardner
Phương Anh dịch và giới thiệu
Dư luận Hoa Kỳ gần đây như sôi sục lên vì sự trỗi dậy của giáo dục Trung Quốc, thông qua hai sự kiện nổi bật thu hút rất nhiều giấy mực của giới truyền thông Mỹ. Đầu tiên là vị trí quán quân của học sinh Thượng Hải trong kỳ thi PISA, rồi liền sau đó cuốn sách nổi tiếng của Amy Chua, nữ giáo sư đại học Yale người Mỹ gốc Hoa với nhận định rằng chính cách dạy con khắt khe của người Hoa đã tạo ra những học sinh có thành tích học tập xuất sắc.
Trước những sự kiện trên, cả nước Mỹ hiện đang lo lắng rằng trí hàng đầu thế giới của họ dường như đang bị đe dọa nặng nề bởi một Trung Quốc đang ngày càng lớn mạnh. Phải chăng nước Mỹ cần xem xét lại phương pháp giáo dục của mình, và nên bắt chước cách làm của Trung Quốc? Nhiều nhà lãnh đạo chính trị của Mỹ dường như đang có suy nghĩ như vậy, trong đó có cả Tổng thống Obama, như ta có thể nhận thấy qua bài diễn thuyết hàng năm của Tổng thống trước Quốc hội Mỹ “The State of the Union” vào ngày 26/1/2011 vừa qua.
Trong bài viết đăng ngày 4/2/2011 trên blog “Reality Check” (tạm dịch: Kiểm tra hiện trạng giáo dục”, một trang blog nổi tiếng về các vấn đề giáo dục của tờ Tuần Giáo dục (Education Week) của Hoa Kỳ, Walt Gardner đã đưa ra một phân tích khác về sự thành công của mô hình giáo dục châu Á. Bài viết là một lời cảnh báo đối với chính phủ Hoa Kỳ về những rủi ro tiềm ẩn của mô hình giáo dục châu Á, cho dù nó cũng đã giúp cho một số các quốc gia châu Á đạt được những thành tựu to lớn.
Một bài viết rất đáng đọc trong tình hình “bệnh thành tích” vẫn còn là một căn bệnh dai dẳng chưa thể trị dứt của giáo dục Việt Nam. Xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến các độc giả.
-----------------------------
Nếu như có ai không nhớ điều này, thì xin nhắc rằng châu Á luôn đứng ở đầu bảng hoặc ít ra là những vị trí đầu tiên trong mọi bảng xếp hạng thành tích học tập. Hai sự kiện gần đây đủ chứng tỏ điều này: (1) học sinh thành phố Thượng Hải chiếm vị trí số 1 trong kỳ thi học sinh quốc tế có tên là PISA (Program for International Student Assessment), và (2) bài viết có tựa đề “Chiến ca của bà mẹ hổ” của Amy Chua trên tờ Wall Street Journal có khiến trang số lượng truy cập trên trang web nhiều hơn bất kỳ chủ đề nào khác trong suốt lịch sử tồn tại của nó .
Nhưng khi nói đến những thành tựu rực rỡ của giáo dục các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, người ta thường quên không nhắc đến cái giá rất đắt mà học sinh các nước này phải trả. Có thể nhận ra điều này qua hai cách khác nhau.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Trung Quốc có tỷ lệ phụ nữ tự tử cao nhất thế giới. Hàn Quốc thì có tỷ lệ tự tử cao nhất trong các nước công nghiệp, còn Nhật Bản cũng không xa mấy ở phía sau. Sẽ có những người lập luận rằng mối tương quan đó không phải là nhân quả. Họ cho rằng không thể dùng mối tương quan này để chứng minh rằng áp lực phải thành công trong học tập đã gây ra những thảm kịch vừa nêu. Họ nói thế có lẽ cũngđúng.
Tuy nhiên, hoàn toàn có thể chứng minh rằng một hiện tượng đáng lo ngại tương tự đang diễn ra ở Mỹ. Một cuộc khảo sát trên 200.000 sinh viên toàn thời gian tại các trường đại học cho thấy sức khỏe cảm xúc của tân sinh viên đang ở mức thấp nhất kể từ khi số liệu về vấn đề này bắt đầu được thu thập cách đây một phần tư thế kỷ trước, như bài viết đã đăng trên tờ New York Times ngày 26/1 vừa qua cho biết.
Cuộc điều tra có tên “Sinh viên Mỹ năm thứ nhất: các mức chuẩn quốc gia mùa thu năm 2010” được đánh giá cao do kích thước mẫu lớn và độ dài của thời gian thu thập dữ liệu. Kết quả của cuộc điều tra chỉ ra rằng sinh viên năm thứ nhất hiện nay đã rất căng thẳng và chán nản, có lẽ vì họ bị áp lực quá lớn do món nợ vay để học đại học trong khi triển vọng việc làm thì ảm đạm. Tôi không nói rằng những yếu tố này cuối cùng sẽ làm họ phải tự tử, nhưng rõ ràng đây là những dấu hiệu cảnh báo rằng không thể bỏ qua.
Các bằng chứng vừa nêu từ châu Á và từ Mỹ dẫn đến một câu hỏi lớn hơn, là phải chăng nước Mỹ chúng ta nên bắt chước tính cạnh tranh cao độ của châu Á? Bài phát biểu vào tháng 1/2011 của Tổng thống Obama nêu rõ rằng cạnh tranh là điều cần thiết nếu Hoa Kỳ muốn tiếp tục duy trì địa vị là một cường quốc kinh tế. Nhưng tôi tự hỏi không biết Tổng thống có nhận ra mối nguy hiểm tiềm ẩn trong lời phát biểu của mình khi áp dụng tính cạnh tranh đó vào trong lãnh vực giáo dục hay chăng? Liệu có giải thưởng nào có giá trị lớn lao hơn cái nỗi đau mất con mà các bậc phụ huynh phải gánh chịu nếu chẳng may con mình tự tử vì không chịu nổi áp lực? Liệu có thành tích nào có thể giúp các bậc phụ huynh nguôi bớt nỗi buồn đó chăng? Thật đau buồn khi con cái phải chịu tang cha mẹ, nhưng nỗi đau đó sẽ trở thành không chịu đựng nổi nếu cha mẹ phải để tang con. Rõ ràng những kết quả đạt được về mặt trí tuệ là quan trọng. Nhưng còn những kết quả đạt được về mặt cảm xúc thì sao? Chẳng lẽ chúng không quan trọng chút nào ư?
Nhật Bản là một ví dụ điển hình. Mặc dù học sinh Nhật học rất tốt môn các toán và khoa học, nhưng đa số các em cho biết đã hoàn toàn mất hết hứng thú đối với các môn này. Một cuộc khảo sát về hứng thú học tập do Hiệp hội đánh giá thành tích học tập quốc tế thực hiện cho thấy Nhật Bản xếp hạng thứ 36 trong số 37 quốc gia đối với môn toán và xếp hạng thứ 22 trong số 23 quốc gia đối với môn khoa học. Theo tôi, điều này cho thấy thành tích của học sinh Nhật chẳng qua chỉ là những thắng lợi vô nghĩa mà thôi. Liệu chúng ta đạt được điều gì khi tạo ra những học sinh đạt được điểm cao trong các bài trắc nghiệm nhưng lại bị chấm điểm thấp về thái độ tích cực học tập?
Ngày hôm nay, chúng ta ngưỡng mộ Trung Quốc vì những thành tích giáo dục mà họ đạt được. BIết đâu ngày mai chúng ta lại chửi rủa họ vì những thiệt hại mà họ đã gây ra cho cả một thế hệ trẻ em. Tôi hy vọng Hoa Kỳ sẽ nhận ra những rủi ro tiềm ẩn trước khi quyết định sẽ học tập từ mô hình châu Á. Vì chúng ta sẽ phải chịu trách nhiệm về lựa chọn của chính mình – Caveat Emptor!
-----------------------
Saturday, March 5, 2011
"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (3)
7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao
Hoạt động thể thao sôi nổi của các trường đại học cũng là một trong những nét đặc thù tạo nên sự “hấp dẫn” của nền đại học Mỹ. Tuy nhiên, theo Daniel de Vise thì hoạt động này ngày càng được tổ chức giống hoạt động thể thao nhà nghề có tính thương mại, chủ yếu nhằm mục đích quảng cáo và xây dựng thương hiệu đối với công chúng, hơn là nhằm mục đích rèn luyện thân thể và tinh thần thượng võ cho các sinh viên, điều mà các trường đại học lẽ ra phải làm.
Chi phí cho các hoạt động thể thao nhà nghề là rất tốn kém, và nguồn kinh phí để tổ chức các hoạt động này đương nhiên được rút từ nguồn kinh phí chung của trường. Nói cách khác, mặc dù các huấn luyện viên và vận động viên đội tuyển của các trường đại học được trả lương cao ngất ngưởng như trong thể thao nhà nghề, thì chi phí cho các hoạt động này lại không phải tự trang trải (ví dụ, thông qua bán vé) mà được nhà trường bao cấp, hỗ trợ từ nguồn ngân sách được cấp và/hoặc từ học phí của người học. Chẳng trách nào học phí đại học của Mỹ cứ liên tục tăng trong suốt một thời gian dài và dường như chưa có ý định đứng lại. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái của Mỹ, rõ ràng là không thể tiếp tục mức độ hỗ trợ cho thể thao tại các trường đại học như hiện nay.
8. Xem xét lại việc tổ chức phụ đạo ở các trường cao đẳng cộng đồng
Cao đẳng cộng đồng là một đặc trưng nổi bật khác mà nền giáo dục Mỹ rất tự hào và được nhiều quốc gia trên thế giới học tập, trong đó có Việt Nam. Cùng với chính sách tuyển sinh mở (gần như ai cũng có thể vào học mà không phải trải qua một cuộc tuyển lựa khắt khe), các trường cao đẳng cộng đồng luôn cung cấp những chương trình giúp củng cố những kiến thức và kỹ năng cơ bản cho những sinh viên yếu (dưới chuẩn) để giúp họ có thể theo kịp chương trình học ở trình độ sau trung học.
Tất cả nghe qua thì rất hay và rõ ràng đáng được duy trì, nhưng những con số sau đây chắc chắn sẽ làm cho bất cứ ai ủng hộ mô hình cao đẳng cộng đồng cũng phải giật mình. Cứ 5 sinh viên đăng ký vào học ở một trường cao đẳng cộng đồng thì có đến 3 người phải theo học những chương trình phụ đạo những kiến thức và kỹ năng của trung học. Đáng giật mình hơn là cứ mười sinh viên phải học phụ đạo khi vào cao đẳng cộng đồng thì chỉ có hơn hai người hoàn tất và tốt nghiệp với tấm bằng cao đẳng hai năm với thời gian học tổng cộng là … tám năm!
Những số liệu nêu trên bộc lộ một bất cập rất lớn trong mô hình cao đẳng cộng đồng hiện nay, mà điểm mấu chốt cũng là ở khâu tiếp nhận sinh viên. Bài viết của Daniel de Vise trích lời của Robert Templin, Hiệu trưởng trường Cao đẳng cộng đồng Bắc Virginia, cho rằng các lớp học phụ đạo như hiện nay là không hữu ích và làm lãng phí thời gian của sinh viên vì phải học lại khá nhiều điều họ đã biết hoặc những điều không thực sự cần thiết cho việc học ở bậc cao đẳng và nghề nghiệp của họ sau này. Vì vậy, thay vì yêu cầu các sinh viên còn yếu kiến thức cơ bản (việc xác định sinh viên yếu được thực hiện dựa trên điểm số của một bài kiểm tra) phải theo học các lớp phụ đạo trước khi họ có thể bắt đầu chương trình chính khóa, một số trường vào thẳng chương trình chính và tự chọn tham gia các khóa học phụ đạo bất cứ khi nào họ thấy cần củng cố kiến thức để có thể học lên tiếp.
--------
“Tám biện pháp cải thiện nền giáo dục Mỹ” tất nhiên cũng là ý kiến của chỉ một tác giả, và bài viết này sau khi ra đời đã gây ra những tranh cãi nảy lửa trên báo chí Mỹ, với những lời phản bác nặng nề – một điều rất bình thường trong một xã hội đề cao tự do tư tưởng và tự do ngôn luận như Mỹ. Nhưng bài viết của Daniel de Vise về những vấn nạn và giải pháp đối với nền đại học của Mỹ vẫn rất có giá trị vì những nhận định sắc bén và mới mẻ của nó. Và thật thú vị, nếu nền đại học Việt Nam rất khó học hỏi từ những thành tựu của mô hình đại học Mỹ, thì những bất cập và thất bại của nó dường như lại có thể là những bài học lớn mà các nhà lãnh đạo ngành giáo dục của Việt Nam có thể rút ra để cải thiện giáo dục của chính mình.
Hoạt động thể thao sôi nổi của các trường đại học cũng là một trong những nét đặc thù tạo nên sự “hấp dẫn” của nền đại học Mỹ. Tuy nhiên, theo Daniel de Vise thì hoạt động này ngày càng được tổ chức giống hoạt động thể thao nhà nghề có tính thương mại, chủ yếu nhằm mục đích quảng cáo và xây dựng thương hiệu đối với công chúng, hơn là nhằm mục đích rèn luyện thân thể và tinh thần thượng võ cho các sinh viên, điều mà các trường đại học lẽ ra phải làm.
Chi phí cho các hoạt động thể thao nhà nghề là rất tốn kém, và nguồn kinh phí để tổ chức các hoạt động này đương nhiên được rút từ nguồn kinh phí chung của trường. Nói cách khác, mặc dù các huấn luyện viên và vận động viên đội tuyển của các trường đại học được trả lương cao ngất ngưởng như trong thể thao nhà nghề, thì chi phí cho các hoạt động này lại không phải tự trang trải (ví dụ, thông qua bán vé) mà được nhà trường bao cấp, hỗ trợ từ nguồn ngân sách được cấp và/hoặc từ học phí của người học. Chẳng trách nào học phí đại học của Mỹ cứ liên tục tăng trong suốt một thời gian dài và dường như chưa có ý định đứng lại. Trong bối cảnh kinh tế suy thoái của Mỹ, rõ ràng là không thể tiếp tục mức độ hỗ trợ cho thể thao tại các trường đại học như hiện nay.
8. Xem xét lại việc tổ chức phụ đạo ở các trường cao đẳng cộng đồng
Cao đẳng cộng đồng là một đặc trưng nổi bật khác mà nền giáo dục Mỹ rất tự hào và được nhiều quốc gia trên thế giới học tập, trong đó có Việt Nam. Cùng với chính sách tuyển sinh mở (gần như ai cũng có thể vào học mà không phải trải qua một cuộc tuyển lựa khắt khe), các trường cao đẳng cộng đồng luôn cung cấp những chương trình giúp củng cố những kiến thức và kỹ năng cơ bản cho những sinh viên yếu (dưới chuẩn) để giúp họ có thể theo kịp chương trình học ở trình độ sau trung học.
Tất cả nghe qua thì rất hay và rõ ràng đáng được duy trì, nhưng những con số sau đây chắc chắn sẽ làm cho bất cứ ai ủng hộ mô hình cao đẳng cộng đồng cũng phải giật mình. Cứ 5 sinh viên đăng ký vào học ở một trường cao đẳng cộng đồng thì có đến 3 người phải theo học những chương trình phụ đạo những kiến thức và kỹ năng của trung học. Đáng giật mình hơn là cứ mười sinh viên phải học phụ đạo khi vào cao đẳng cộng đồng thì chỉ có hơn hai người hoàn tất và tốt nghiệp với tấm bằng cao đẳng hai năm với thời gian học tổng cộng là … tám năm!
Những số liệu nêu trên bộc lộ một bất cập rất lớn trong mô hình cao đẳng cộng đồng hiện nay, mà điểm mấu chốt cũng là ở khâu tiếp nhận sinh viên. Bài viết của Daniel de Vise trích lời của Robert Templin, Hiệu trưởng trường Cao đẳng cộng đồng Bắc Virginia, cho rằng các lớp học phụ đạo như hiện nay là không hữu ích và làm lãng phí thời gian của sinh viên vì phải học lại khá nhiều điều họ đã biết hoặc những điều không thực sự cần thiết cho việc học ở bậc cao đẳng và nghề nghiệp của họ sau này. Vì vậy, thay vì yêu cầu các sinh viên còn yếu kiến thức cơ bản (việc xác định sinh viên yếu được thực hiện dựa trên điểm số của một bài kiểm tra) phải theo học các lớp phụ đạo trước khi họ có thể bắt đầu chương trình chính khóa, một số trường vào thẳng chương trình chính và tự chọn tham gia các khóa học phụ đạo bất cứ khi nào họ thấy cần củng cố kiến thức để có thể học lên tiếp.
--------
“Tám biện pháp cải thiện nền giáo dục Mỹ” tất nhiên cũng là ý kiến của chỉ một tác giả, và bài viết này sau khi ra đời đã gây ra những tranh cãi nảy lửa trên báo chí Mỹ, với những lời phản bác nặng nề – một điều rất bình thường trong một xã hội đề cao tự do tư tưởng và tự do ngôn luận như Mỹ. Nhưng bài viết của Daniel de Vise về những vấn nạn và giải pháp đối với nền đại học của Mỹ vẫn rất có giá trị vì những nhận định sắc bén và mới mẻ của nó. Và thật thú vị, nếu nền đại học Việt Nam rất khó học hỏi từ những thành tựu của mô hình đại học Mỹ, thì những bất cập và thất bại của nó dường như lại có thể là những bài học lớn mà các nhà lãnh đạo ngành giáo dục của Việt Nam có thể rút ra để cải thiện giáo dục của chính mình.
Nhãn:
amer hied,
hied reform,
world hied news
"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (2)
4. Cải cách chương trình cốt lõi
Một điểm tự hào khác của nền giáo dục Mỹ là chương trình đào tạo dựa trên một nền kiến thức rộng (mà ở trên ta đã đề cập đến dưới tên gọi là giáo dục khai phóng). Tất cả sinh viên Mỹ dù học ngành nào đều có chung một nền tảng kiến thức kinh điển tương tự nhau: Plato, Shakespeare, Darwin, tiếng La Tinh hoặc tiếng Hy Lạp, vv. Những người ủng hộ cách xây dựng chương trình như trên đã đưa ra lập luận rằng một trong những sứ mạng quan trọng của trường đại học là truyền lại cho thế sau những di sản tinh thần của nhân loại.
Những người ủng hộ cải cách lại cho rằng điều quan trọng không phải là cung cấp cho sinh viên những kiến thức kinh điển vốn ít đóng góp trực tiếp vào nhu cầu sử dụng hàng ngày và lại đầy ra trong sách vở, tài liệu, mạng Internet, mà là cung cấp cho họ những kỹ năng thiết yếu trong cuộc sống, ví dụ như kỹ năng tư duy phê phán chẳng hạn. Vì nếu không cải cách theo hướng này thì các trường đại học sẽ tạo ra những con người có thể biết rất nhiều nhưng chẳng làm được điều gì ra hồn cả.
5. Tăng cường giao bài tập về nhà
Nếu so với thời gian cách đây nửa thế kỷ thì thời gian học tập tại nhà của sinh viên đại học Mỹ đã giảm đi một cách đáng kể, từ 25 giờ một tuần xuống còn khoảng 15 giờ một tuần, Daniel de Vise đã ghi nhận như trên trong bài viết của mình. Tuy vậy, trong khi thời gian học tập giảm đi thì sinh viên ngày nay lại đạt điểm số trung bình cao hơn các cụ sinh viên cách đây 50 năm, từ mức 2.5 trên 4 tức ngay mức trung bình khá (giữa C và B) lên thành mức 3.0 trên 4 tức mức khá.
Những số liệu này phải chăng cho thấy sinh viên Mỹ ngày nay thông minh hơn và học hành có hiệu quả hơn cách đây nửa thế kỷ? Hay ngược lại, nó cho thấy các trường đại học Mỹ đang trở nên dễ dãi hơn rất nhiều đối với các sinh viên của mình? Các nhà nghiên cứu giáo dục Mỹ thiên về cách diễn giải thứ hai. Xin nhắc lại kết quả của cuộc khảo sát sử dụng bài trắc nghiệm CLA đã đề cập ở trên. Cuộc khảo sát này cho thấy có đến 36% sinh viên tốt nghiệp không học được thêm một chút gì trong suốt thời gian học đại học. Nếu kết nối thông tin này với những số liệu đã nêu đoạn trên thì có thể thấy ngay sự dễ dãi của các trường đại học là nguyên nhân chính làm giảm sút chất lượng học tập của sinh viên Mỹ.
Tại sao các trường đại học Mỹ ngày nay lại trở nên dễ dãi đối với sinh viên hơn trước đây? Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu trung có hai nguyên nhân nổi bật. Trước hết là quan niệm xem sinh viên là những khách hàng và nhà trường cần chiều chuộng hơn là cần kèm cặp, hướng dẫn, rèn luyện để giáo dục họ trở thành những con người theo những mục tiêu giáo dục đã định. Với tư cách là“thượng đế” trong trường đại học, sinh viên có quyền đưa ý kiến về mức độ hài lòng của mình sau mỗi môn học, và những ý kiến này được sử dụng để đánh giá giảng viên. Trong tình hình đó, các giảng viên sẽ trở nên dễ dãi với sinh viên, tránh đưa ra những yêu cầu quá cao kèm hoặc những đòi hỏi khắt khe trong việc chuẩn bị bài vở ở nhà, vì điều này chỉ làm cho các thượng đế kém hài lòng về mình mà thôi.
Một nguyên nhân khác là chính sách quá nhấn mạnh thành tích nghiên cứu mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy trong đánh giá giảng viên. Bài báo của Daniel de Vise trích lời một giảng viên giải thích tại sao ông ít giao các bài tập về nhà. Rất đơn giản: nếu giao nhiều bài tập cho sinh viên thì sẽ phải mất nhiều thời gian để chấm. Trong khi đó, cuộc chạy đua giành thành tích nghiên cứu để khẳng định vị trí trong các trường đại học thật nghiệt ngã. Như vậy, lựa chọn của giảng viên sẽ nghiêng về đâu là điều mà ai cũng có thể đoán được. Và hậu quả của điều này ra sao thì đã rõ.
Thêm một nhận định lạc đề khác ở đây: Phải chăng xu hướng dễ dãi với sinh viên cũng đang tồn tại rất rõ nét tại Việt Nam, dù có thể do những nguyên nhân không giống với các nguyên nhân vừa nêu trong giáo dục của Mỹ?
6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp
Như đã nêu, vị trí hàng đầu của giáo dục đại học Mỹ hiện nay vẫn đang được cả thế giới thừa nhận. Thế nhưng một loạt các kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy giáo dục đại học Mỹ không phải là hoàn toàn không có đối thủ. Xét trên một số khía cạnh thì thậm chí nền đại học Mỹ đã bộc lộ những nhược điểm khá trầm trọng và bị đang một số đối thủ tiềm năng vượt khá xa.
Một trong những nhược điểm ấy là tỷ lệ tốt nghiệp đại học của dân Mỹ chưa cao so với những nước công nghiệp phát triển khác. Một nghiên cứu của tổ chức College Board năm 2010 cho thấy nước Mỹ chỉ đứng hạng thứ 12 trên tổng số 36 quốc gia công nghiệp phát triển được khảo sát, với tỷ lệ là 40% thanh niên có một bằng cấp sau trung trung học (tối thiểu là bằng cao đẳng cộng đồng 2 năm), so với tỷ lệ 56% của Canada. Đáng lo ngại hơn nữa là sự chênh lệch rất lớn về tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn (tức không quá 6 năm kể từ ngày bắt đầu học) khi so sánh giữa các nhóm xã hội khác nhau tại Mỹ. Tỷ lệ này ở người da trắng là 60%, người gốc Mỹ Latin là 49%, còn người da đen chỉ được 40%. Tỷ lệ bình quân quốc gia cũng chỉ đạt 57%, có nghĩa là cứ hai sinh viên theo học đại học tại Mỹ thì có gần như có người không hoàn tất đúng hạn.
Việc sinh viên tham gia vào quá trình đào tạo trong một trường đại học nhưng cuối cùng bỏ dở không tốt nghiệp đáng lo ngại vì hai lẽ. Trước hết, đây rõ ràng là một sự lãng phí rất cao cho cả hai phía nhà trường và người học, khi công sức, chi phí và thời gian bỏ ra trong quá trình đào tạo cuối cùng không đem lại kết quả gì hêt. Hơn nữa, điều này cho thấy việc đào tạo của các trường đại học có một khâu nào đó trục trặc. Trên nguyên tắc, sinh viên khi đã được xét tuyển vào một chương trình đại học phải có đủ tiềm năng để hoàn tất chương trình này, và nhà trường phải có một chương trình đào tạo thích hợp, một kế hoạch hướng dẫn tỉ mỉ cũng như những điều kiện hỗ trợ cần thiết để sinh viên hoàn tất chương trình. Một khi số sinh viên đã được nhận vào nhưng sau đó lại không đủ năng lực để hoàn tất thì chỉ có thể hoặc do khâu tuyển sinh quá lỏng lẻo, hoặc do quá trình đào tạo của các trường không hiệu quả.
(còn tiếp kỳ 3)
Một điểm tự hào khác của nền giáo dục Mỹ là chương trình đào tạo dựa trên một nền kiến thức rộng (mà ở trên ta đã đề cập đến dưới tên gọi là giáo dục khai phóng). Tất cả sinh viên Mỹ dù học ngành nào đều có chung một nền tảng kiến thức kinh điển tương tự nhau: Plato, Shakespeare, Darwin, tiếng La Tinh hoặc tiếng Hy Lạp, vv. Những người ủng hộ cách xây dựng chương trình như trên đã đưa ra lập luận rằng một trong những sứ mạng quan trọng của trường đại học là truyền lại cho thế sau những di sản tinh thần của nhân loại.
Những người ủng hộ cải cách lại cho rằng điều quan trọng không phải là cung cấp cho sinh viên những kiến thức kinh điển vốn ít đóng góp trực tiếp vào nhu cầu sử dụng hàng ngày và lại đầy ra trong sách vở, tài liệu, mạng Internet, mà là cung cấp cho họ những kỹ năng thiết yếu trong cuộc sống, ví dụ như kỹ năng tư duy phê phán chẳng hạn. Vì nếu không cải cách theo hướng này thì các trường đại học sẽ tạo ra những con người có thể biết rất nhiều nhưng chẳng làm được điều gì ra hồn cả.
5. Tăng cường giao bài tập về nhà
Nếu so với thời gian cách đây nửa thế kỷ thì thời gian học tập tại nhà của sinh viên đại học Mỹ đã giảm đi một cách đáng kể, từ 25 giờ một tuần xuống còn khoảng 15 giờ một tuần, Daniel de Vise đã ghi nhận như trên trong bài viết của mình. Tuy vậy, trong khi thời gian học tập giảm đi thì sinh viên ngày nay lại đạt điểm số trung bình cao hơn các cụ sinh viên cách đây 50 năm, từ mức 2.5 trên 4 tức ngay mức trung bình khá (giữa C và B) lên thành mức 3.0 trên 4 tức mức khá.
Những số liệu này phải chăng cho thấy sinh viên Mỹ ngày nay thông minh hơn và học hành có hiệu quả hơn cách đây nửa thế kỷ? Hay ngược lại, nó cho thấy các trường đại học Mỹ đang trở nên dễ dãi hơn rất nhiều đối với các sinh viên của mình? Các nhà nghiên cứu giáo dục Mỹ thiên về cách diễn giải thứ hai. Xin nhắc lại kết quả của cuộc khảo sát sử dụng bài trắc nghiệm CLA đã đề cập ở trên. Cuộc khảo sát này cho thấy có đến 36% sinh viên tốt nghiệp không học được thêm một chút gì trong suốt thời gian học đại học. Nếu kết nối thông tin này với những số liệu đã nêu đoạn trên thì có thể thấy ngay sự dễ dãi của các trường đại học là nguyên nhân chính làm giảm sút chất lượng học tập của sinh viên Mỹ.
Tại sao các trường đại học Mỹ ngày nay lại trở nên dễ dãi đối với sinh viên hơn trước đây? Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu trung có hai nguyên nhân nổi bật. Trước hết là quan niệm xem sinh viên là những khách hàng và nhà trường cần chiều chuộng hơn là cần kèm cặp, hướng dẫn, rèn luyện để giáo dục họ trở thành những con người theo những mục tiêu giáo dục đã định. Với tư cách là“thượng đế” trong trường đại học, sinh viên có quyền đưa ý kiến về mức độ hài lòng của mình sau mỗi môn học, và những ý kiến này được sử dụng để đánh giá giảng viên. Trong tình hình đó, các giảng viên sẽ trở nên dễ dãi với sinh viên, tránh đưa ra những yêu cầu quá cao kèm hoặc những đòi hỏi khắt khe trong việc chuẩn bị bài vở ở nhà, vì điều này chỉ làm cho các thượng đế kém hài lòng về mình mà thôi.
Một nguyên nhân khác là chính sách quá nhấn mạnh thành tích nghiên cứu mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy trong đánh giá giảng viên. Bài báo của Daniel de Vise trích lời một giảng viên giải thích tại sao ông ít giao các bài tập về nhà. Rất đơn giản: nếu giao nhiều bài tập cho sinh viên thì sẽ phải mất nhiều thời gian để chấm. Trong khi đó, cuộc chạy đua giành thành tích nghiên cứu để khẳng định vị trí trong các trường đại học thật nghiệt ngã. Như vậy, lựa chọn của giảng viên sẽ nghiêng về đâu là điều mà ai cũng có thể đoán được. Và hậu quả của điều này ra sao thì đã rõ.
Thêm một nhận định lạc đề khác ở đây: Phải chăng xu hướng dễ dãi với sinh viên cũng đang tồn tại rất rõ nét tại Việt Nam, dù có thể do những nguyên nhân không giống với các nguyên nhân vừa nêu trong giáo dục của Mỹ?
6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp
Như đã nêu, vị trí hàng đầu của giáo dục đại học Mỹ hiện nay vẫn đang được cả thế giới thừa nhận. Thế nhưng một loạt các kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy giáo dục đại học Mỹ không phải là hoàn toàn không có đối thủ. Xét trên một số khía cạnh thì thậm chí nền đại học Mỹ đã bộc lộ những nhược điểm khá trầm trọng và bị đang một số đối thủ tiềm năng vượt khá xa.
Một trong những nhược điểm ấy là tỷ lệ tốt nghiệp đại học của dân Mỹ chưa cao so với những nước công nghiệp phát triển khác. Một nghiên cứu của tổ chức College Board năm 2010 cho thấy nước Mỹ chỉ đứng hạng thứ 12 trên tổng số 36 quốc gia công nghiệp phát triển được khảo sát, với tỷ lệ là 40% thanh niên có một bằng cấp sau trung trung học (tối thiểu là bằng cao đẳng cộng đồng 2 năm), so với tỷ lệ 56% của Canada. Đáng lo ngại hơn nữa là sự chênh lệch rất lớn về tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn (tức không quá 6 năm kể từ ngày bắt đầu học) khi so sánh giữa các nhóm xã hội khác nhau tại Mỹ. Tỷ lệ này ở người da trắng là 60%, người gốc Mỹ Latin là 49%, còn người da đen chỉ được 40%. Tỷ lệ bình quân quốc gia cũng chỉ đạt 57%, có nghĩa là cứ hai sinh viên theo học đại học tại Mỹ thì có gần như có người không hoàn tất đúng hạn.
Việc sinh viên tham gia vào quá trình đào tạo trong một trường đại học nhưng cuối cùng bỏ dở không tốt nghiệp đáng lo ngại vì hai lẽ. Trước hết, đây rõ ràng là một sự lãng phí rất cao cho cả hai phía nhà trường và người học, khi công sức, chi phí và thời gian bỏ ra trong quá trình đào tạo cuối cùng không đem lại kết quả gì hêt. Hơn nữa, điều này cho thấy việc đào tạo của các trường đại học có một khâu nào đó trục trặc. Trên nguyên tắc, sinh viên khi đã được xét tuyển vào một chương trình đại học phải có đủ tiềm năng để hoàn tất chương trình này, và nhà trường phải có một chương trình đào tạo thích hợp, một kế hoạch hướng dẫn tỉ mỉ cũng như những điều kiện hỗ trợ cần thiết để sinh viên hoàn tất chương trình. Một khi số sinh viên đã được nhận vào nhưng sau đó lại không đủ năng lực để hoàn tất thì chỉ có thể hoặc do khâu tuyển sinh quá lỏng lẻo, hoặc do quá trình đào tạo của các trường không hiệu quả.
(còn tiếp kỳ 3)
Nhãn:
amer hied,
hied reform,
world hied news
"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (1)
Như vậy là bài viết "Tám biện pháp ..." của tôi đã được Tia Sáng đăng trên số báo đầu tháng 3/2011 vừa qua. Bản mềm có thể tìm thấy trên trang mạng của Tia Sáng, ở đây.
Còn dưới đây là bản chưa qua biên tập của tôi. Phải nói thêm: báo TS đã biên tập rất tốt, làm cho bài viết gọn gàng và dễ đọc hơn đối với độc giả. Chỉ có điều, theo nguyên tắc "văn mình, vợ người", tôi cũng vẫn muốn đăng bản gốc của mình ở đây. Thôi thì các bạn chịu khó đọc và so sánh nhé!
--------------
Giáo dục đại học Mỹ luôn được cả thế giới nhắc đến như một mô hình đại học lý tưởng, là hình mẫu cho các quốc gia khác học tập. Nhưng cũng chính nền đại học này lại không làm cho công chúng Mỹ hài lòng. Đại học Mỹ gần đây đang liên tục chịu búa rìu của dư luận về nhiều vấn đề như học phí quá cao và không ngừng gia tăng, tỷ lệ tốt nghiệp có sự chênh lệch rất lớn giữa các nhóm xã hội khác nhau, và gần đây nhất là câu hỏi không mấy dễ chịu, đó là: liệu sinh viên tốt nghiệp có thực sự học được điều gì có ích hay chăng? Nói cách khác, nền đại học Mỹ cần có những cải cách nếu không muốn bị mất vị trí hàng đầu mà nó đang có.
Nhưng cải cách giáo dục đại học Mỹ thế nào đây? Trong bài viết đăng trên tờ Washington Post ngày 20/2/2011 có tựa đề là "Eight ways to get higher education into shape", Daniel de Vise đã đưa ra tám biện pháp củng cố giáo dục đại học Mỹ. Các biện pháp đó là:
1. Đo lường việc học của sinh viên
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng" (merit aid)
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm
4. Cải cách chương trình cốt lõi
5. Tăng cường giao bài tập về nhà
6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp
7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao
8. Xem xét lại việc tổ chức phụ đạo ở các trường cao đẳng cộng đồng.
Tại sao lại là tám biện pháp nêu trên? Rất đơn giản, các biện pháp vừa nêu chính là để giải quyết các vấn đề đang tồn tại trong giáo dục đại học của Mỹ hiện nay. Chúng ta hãy cùng tác giả của bài báo xem xét từng biện pháp dưới đây.
1. Đo lường việc học của sinh viên
Các trường đại học Mỹ vốn nổi tiếng về mức độ tự chủ cao; đồng thời sinh viên đại học cũng có rất nhiều quyền lựa chọn trong việc học của mình. Điều này rất tốt, nhưng không phải không có mặt trái của nó. Theo Daniel de Vise, cách đây chỉ khoảng một thập niên trở về trước, rất ít trường đại học và cao đẳng của Mỹ có được những phương pháp khách quan để đo lường việc học của sinh viên, và vì vậy hầu như không nắm được các sinh viên đã học tập được gì từ khi vào trường đến khi tốt nghiệp.
Mãi đến thời gian gần đây, trước những áp lực của cả nhà nước lẫn công chúng thì giới đại học Mỹ mới nghiên cứu và đưa ra những bài trắc nghiệm đo lường thành quả của việc học của sinh viên đã tốt nghiệp (nói theo ngôn ngữ quản lý giáo dục của VN thì đây chính là “đánh giá chuẩn đầu ra”, tức đo năng lực đạt được của sinh viên sau khi học). Một nghiên cứu được thực hiện gần đây sử dụng bài trắc nghiệm CLA (Collegiate Learning Assessment, tạm dịch Bài trắc nghiệm học tập bậc đại học) nhằm đo lường năng lực tư duy của sinh viên tốt nghiệp đã đưa ra kết quả thực sự đáng báo động: Sinh viên tốt nghiệp đại học hầu như không có gì khác hơn so với sinh viên mới vào trường, hay nói cách khác, việc học tại trường hầu như không mang lại một chút giá trị gia tăng nào cho người học
Đây chính là lý do Daniel de Vise trong bài viết của mình đã đưa ra đề xuất đầu tiên là cần phải đo lường việc học của sinh viên. Chỉ khi nào nhà trường đo đạc được chính xác kết quả của việc học tập của sinh viên sau từng môn học và có những hành động kịp thời để thúc đẩy việc học, thì lúc ấy mới việc học ở đại học mới đem lại cho người học những giá trị gia tăng cần có.
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng"
Biện pháp này có vẻ rất vô lý, vì đây là một trong những điểm "hấp dẫn" của đại học Mỹ và cũng là một chiêu tiếp thị quan trọng của tất cả các trường đại học nhằm thu hút tài năng đến học ở trường mình. Nhưng theo lập luận của Daniel de Vise thì việc trợ cấp này thực ra chỉ giúp con nhà giàu chứ chẳng giúp gì cho con nhà nghèo cả. Con nhà giàu thông thường sẽ có điểm học bạ ở phổ thông và điểm thi SAT/ACT thấp hơn (không có đủ điều kiện bằng con nhà giàu).
Nếu vẫn tiếp tục cách làm hiện nay, thì những người không thuộc diện được xét cấp học bổng "tài năng" không những phải đóng học phí để trả chi phí học tập của mình, mà còn phải gánh phần chi phí rất nặng của những người được cấp học bổng nữa. Kết quả là học phí ngày càng cao ngất ngưởng, khiến cho nhiều người cần học để cải thiện thu nhập nhưng không thể nào trả nổi học phí và phải nghỉ học. Khoảng cách giàu nghèo vì thế ngày càng tăng, và công bằng xã hội bị ảnh hưởng.
Một chút lạc đề: việc cấp học bổng tài năng ở Mỹ nghe rất giống các chương trình cử nhân tài năng, và mở rộng hơn nữa là hệ thống các trường chuyên ở bậc trung học tại Việt Nam. Phải chăng giáo dục của chúng ta cũng đang xuất hiện mầm mống căn bệnh “lấy của người nghèo chia cho người giàu” chứ không phải là ngược lại, như định hướng xã hội chủ nghĩa mà các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam vẫn kiên trì theo đuổi?
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm
Ba năm là thời gian đào tạo đại học chuẩn của châu Âu theo Tiến trình Bologna (hệ thống 3-5-8 tức 3 năm xong đại học, thêm 2 năm tức sau 5 năm xong thạc sĩ, thêm 3 năm tức sau 8 năm xong tiến sĩ). Tuy nhiên, ở Mỹ thì thời gian chuẩn để hoàn tất chương trình đại học là 4 năm, không kể những người học tăng số môn mỗi năm để rút ngắn thời gian.
Theo Daniel de Vise, tác giả bài viết, thực ra trước đây Mỹ cũng đã từng đào tạo đại học trong 3 năm, cho đến khi trường đại học Harvard đưa ra yêu cầu phải kéo dài thành 4 năm (việc này xảy ra vào năm 1652). Hiện nay, một số đại học của Mỹ đang thử nghiệm áp dụng chương trình đại học trong 3 năm, và kết quả rất khả quan. Vì vậy, chẳng có lý do gì mà không trở lại chương trình 3 năm để tiết kiệm thời gian và chi phí.
Việc kéo dài thời gian học ra thành 4 năm, theo những người ủng hộ việc làm này, là nhằm có thời gian để sinh viên học những môn học "khai phóng" (liberal arts trong tiếng Anh, tạm dịch "khai phóng" trong khi chờ đợi một cách dịch hay hơn). Nhưng trong khi chi phí học tập ngày càng tăng, mà lợi ích của việc học chưa đo được rõ ràng, thì việc đòi hỏi giảm thời gian để giảm chi phí xem ra cũng rất hợp lý.
(còn tiếp)
Còn dưới đây là bản chưa qua biên tập của tôi. Phải nói thêm: báo TS đã biên tập rất tốt, làm cho bài viết gọn gàng và dễ đọc hơn đối với độc giả. Chỉ có điều, theo nguyên tắc "văn mình, vợ người", tôi cũng vẫn muốn đăng bản gốc của mình ở đây. Thôi thì các bạn chịu khó đọc và so sánh nhé!
--------------
Giáo dục đại học Mỹ luôn được cả thế giới nhắc đến như một mô hình đại học lý tưởng, là hình mẫu cho các quốc gia khác học tập. Nhưng cũng chính nền đại học này lại không làm cho công chúng Mỹ hài lòng. Đại học Mỹ gần đây đang liên tục chịu búa rìu của dư luận về nhiều vấn đề như học phí quá cao và không ngừng gia tăng, tỷ lệ tốt nghiệp có sự chênh lệch rất lớn giữa các nhóm xã hội khác nhau, và gần đây nhất là câu hỏi không mấy dễ chịu, đó là: liệu sinh viên tốt nghiệp có thực sự học được điều gì có ích hay chăng? Nói cách khác, nền đại học Mỹ cần có những cải cách nếu không muốn bị mất vị trí hàng đầu mà nó đang có.
Nhưng cải cách giáo dục đại học Mỹ thế nào đây? Trong bài viết đăng trên tờ Washington Post ngày 20/2/2011 có tựa đề là "Eight ways to get higher education into shape", Daniel de Vise đã đưa ra tám biện pháp củng cố giáo dục đại học Mỹ. Các biện pháp đó là:
1. Đo lường việc học của sinh viên
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng" (merit aid)
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm
4. Cải cách chương trình cốt lõi
5. Tăng cường giao bài tập về nhà
6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp
7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao
8. Xem xét lại việc tổ chức phụ đạo ở các trường cao đẳng cộng đồng.
Tại sao lại là tám biện pháp nêu trên? Rất đơn giản, các biện pháp vừa nêu chính là để giải quyết các vấn đề đang tồn tại trong giáo dục đại học của Mỹ hiện nay. Chúng ta hãy cùng tác giả của bài báo xem xét từng biện pháp dưới đây.
1. Đo lường việc học của sinh viên
Các trường đại học Mỹ vốn nổi tiếng về mức độ tự chủ cao; đồng thời sinh viên đại học cũng có rất nhiều quyền lựa chọn trong việc học của mình. Điều này rất tốt, nhưng không phải không có mặt trái của nó. Theo Daniel de Vise, cách đây chỉ khoảng một thập niên trở về trước, rất ít trường đại học và cao đẳng của Mỹ có được những phương pháp khách quan để đo lường việc học của sinh viên, và vì vậy hầu như không nắm được các sinh viên đã học tập được gì từ khi vào trường đến khi tốt nghiệp.
Mãi đến thời gian gần đây, trước những áp lực của cả nhà nước lẫn công chúng thì giới đại học Mỹ mới nghiên cứu và đưa ra những bài trắc nghiệm đo lường thành quả của việc học của sinh viên đã tốt nghiệp (nói theo ngôn ngữ quản lý giáo dục của VN thì đây chính là “đánh giá chuẩn đầu ra”, tức đo năng lực đạt được của sinh viên sau khi học). Một nghiên cứu được thực hiện gần đây sử dụng bài trắc nghiệm CLA (Collegiate Learning Assessment, tạm dịch Bài trắc nghiệm học tập bậc đại học) nhằm đo lường năng lực tư duy của sinh viên tốt nghiệp đã đưa ra kết quả thực sự đáng báo động: Sinh viên tốt nghiệp đại học hầu như không có gì khác hơn so với sinh viên mới vào trường, hay nói cách khác, việc học tại trường hầu như không mang lại một chút giá trị gia tăng nào cho người học
Đây chính là lý do Daniel de Vise trong bài viết của mình đã đưa ra đề xuất đầu tiên là cần phải đo lường việc học của sinh viên. Chỉ khi nào nhà trường đo đạc được chính xác kết quả của việc học tập của sinh viên sau từng môn học và có những hành động kịp thời để thúc đẩy việc học, thì lúc ấy mới việc học ở đại học mới đem lại cho người học những giá trị gia tăng cần có.
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng"
Biện pháp này có vẻ rất vô lý, vì đây là một trong những điểm "hấp dẫn" của đại học Mỹ và cũng là một chiêu tiếp thị quan trọng của tất cả các trường đại học nhằm thu hút tài năng đến học ở trường mình. Nhưng theo lập luận của Daniel de Vise thì việc trợ cấp này thực ra chỉ giúp con nhà giàu chứ chẳng giúp gì cho con nhà nghèo cả. Con nhà giàu thông thường sẽ có điểm học bạ ở phổ thông và điểm thi SAT/ACT thấp hơn (không có đủ điều kiện bằng con nhà giàu).
Nếu vẫn tiếp tục cách làm hiện nay, thì những người không thuộc diện được xét cấp học bổng "tài năng" không những phải đóng học phí để trả chi phí học tập của mình, mà còn phải gánh phần chi phí rất nặng của những người được cấp học bổng nữa. Kết quả là học phí ngày càng cao ngất ngưởng, khiến cho nhiều người cần học để cải thiện thu nhập nhưng không thể nào trả nổi học phí và phải nghỉ học. Khoảng cách giàu nghèo vì thế ngày càng tăng, và công bằng xã hội bị ảnh hưởng.
Một chút lạc đề: việc cấp học bổng tài năng ở Mỹ nghe rất giống các chương trình cử nhân tài năng, và mở rộng hơn nữa là hệ thống các trường chuyên ở bậc trung học tại Việt Nam. Phải chăng giáo dục của chúng ta cũng đang xuất hiện mầm mống căn bệnh “lấy của người nghèo chia cho người giàu” chứ không phải là ngược lại, như định hướng xã hội chủ nghĩa mà các nhà lãnh đạo chính trị của Việt Nam vẫn kiên trì theo đuổi?
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm
Ba năm là thời gian đào tạo đại học chuẩn của châu Âu theo Tiến trình Bologna (hệ thống 3-5-8 tức 3 năm xong đại học, thêm 2 năm tức sau 5 năm xong thạc sĩ, thêm 3 năm tức sau 8 năm xong tiến sĩ). Tuy nhiên, ở Mỹ thì thời gian chuẩn để hoàn tất chương trình đại học là 4 năm, không kể những người học tăng số môn mỗi năm để rút ngắn thời gian.
Theo Daniel de Vise, tác giả bài viết, thực ra trước đây Mỹ cũng đã từng đào tạo đại học trong 3 năm, cho đến khi trường đại học Harvard đưa ra yêu cầu phải kéo dài thành 4 năm (việc này xảy ra vào năm 1652). Hiện nay, một số đại học của Mỹ đang thử nghiệm áp dụng chương trình đại học trong 3 năm, và kết quả rất khả quan. Vì vậy, chẳng có lý do gì mà không trở lại chương trình 3 năm để tiết kiệm thời gian và chi phí.
Việc kéo dài thời gian học ra thành 4 năm, theo những người ủng hộ việc làm này, là nhằm có thời gian để sinh viên học những môn học "khai phóng" (liberal arts trong tiếng Anh, tạm dịch "khai phóng" trong khi chờ đợi một cách dịch hay hơn). Nhưng trong khi chi phí học tập ngày càng tăng, mà lợi ích của việc học chưa đo được rõ ràng, thì việc đòi hỏi giảm thời gian để giảm chi phí xem ra cũng rất hợp lý.
(còn tiếp)
Nhãn:
amer hied,
hied reform,
world hied news
Monday, February 21, 2011
"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (1)
Tựa của entry này là phần dịch thoát ý của tôi cho tựa bài viết đăng trên tờ Washington Post mới ngày hôm qua, 20/2/2011. Tựa tiếng Anh của bài gốc là "Eight ways to get higher education into shape", có thể tìm thấy ở đây.
Nhưng ... bài viết gì mà lạ vậy? Chẳng phải giáo dục đại học Mỹ cho đến nay vẫn được cả thế giới thừa nhận là nền đại học tốt nhất thế giới, là điểm đến mơ ước của mọi người muốn theo học ở bậc đại học đó sao? Vậy, nếu đã tốt như thế, sao bây giờ lại bàn đến 8 biện pháp để cải thiện nó, y như là nó đang đứng trước một cơn khủng hoảng hoặc thực sự hoặc tiềm ẩn nào đó vậy? Có nhầm lẫn gì đây chăng?
Không đâu, chẳng có nhầm lẫn gì hết! Chính tác giả của bài viết cũng nhắc lại những điều mà tôi mới viết trong đoạn trên: nền đại học Mỹ là mơ ước của toàn thế giới. Nhưng theo tác giả thì điều đó chỉ đúng với những trường đại học tốt nhất nước Mỹ, những tên tuổi như Harvard, Yale, Stanford, UCLA, Caltech vv gì gì đó thôi. Cứ cho rằng có vài chục trường như thế, thậm chí vài trăm đi chăng nữa, thì con số đó chẳng thấm vào đâu so với con số trên 4000 trường đại học và cao đẳng của Mỹ. Trong khi đó, chất lượng của những trường còn lại trong số 4000 trường nói trên thì không những không thể nào sánh được với những trường hàng đầu, mà đôi khi thậm chí phải nói - theo tác giả của bài viết, tất nhiên - là ... tệ hại nữa! Ai không tin, xin vào link tôi đã đưa để đọc, thì rõ ngay thôi!
Vậy chứ 8 biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ là gì? Xin đọc danh sách 8 biện pháp ấy ở dưới đây, bằng tiếng Anh, theo sau là phần giải thích dựa trên ý của tác giả kèm lời "bình loạn" của tôi:
1. Measure student learning | 2. End merit aid | 3. Three-year degrees | 4. Core curriculum | 5. More homework | 6. Encourage completion | 7. Cap athletic subsidies | 8. Rethink remediation
1. Đo lường việc học của sinh viên | 2. Ngưng cấp học bổng "tài năng" | 3. Cấp bằng đại học sau 3 năm (thay vì 4 năm) | 4. Cải cách chương trình cốt lõi | 5. Tăng bài tập về nhà | 6. Khuyến khích hoàn tất khóa học | 7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao | 8. Xem xét lại việc phụ đạo.
Đọc đến đây thì chắc chắn mọi người đều đặt câu hỏi, tại sao lại là 8 giải pháp này mà không là các giải pháp khác? Câu trả lời của tác giả bài viết là như sau: 8 giải pháp vừa nêu thực ra là 8 tồn tại cần giải quyết, và nếu giải quyết xong 8 vấn đề đó thì chất lượng của giáo dục đại học Mỹ ắt sẽ tăng lên đáng kể. Ta hãy xét từng điểm dưới đây:
1. Đo lường việc học của sinh viên: Có một thực tế là sinh viên Mỹ được tin là học hành khá nhàn hạ, chủ động học theo nhu cầu và lựa chọn của mình mà không phải chịu sức ép của thầy cô, sự kiểm soát của nhà trường. Nhưng chính vì vậy mà không ai biết sinh viên Mỹ học xong cái bằng đại học thì thực ra học được cái gì. Cho đến gần đây, dư luận bắt đầu đòi hỏi phải đo lường việc học của sinh viên sau khi ra trường (nói theo kiểu VN thì đó là đánh giá chuẩn đầu ra đấy, tức đo năng lực đạt được của sinh viên sau khi học). Các cơ quan kiểm định cũng bắt đầu quan tâm đến đầu ra, chứ không chỉ là đầu vào và quá trình hoạt động như trước giờ họ vẫn làm nữa.
Và để đáp ứng đòi hỏi này đã có một số nghiên cứu được thực hiện, mà kết quả của chúng cho thấy rằng ... dường như sinh viên học xong đại học đã không học được gì hết!!! Nói cách khác, học đại học chẳng có tác dụng gì hết, ngoài việc được cấp cho một tờ giấy! Nguy quá! Có thể đọc về những nghiên cứu ấy ở nhiều nơi, chẳng hạn như ở đây này. Và còn nhiều nữa, cứ lên google search mấy từ "study finds college students learn nothing" là ra hết.
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng": Có vẻ là một điều vô lý, phải không? Vì một trong những điểm "hấp dẫn" của đại học Mỹ chính là chỗ này đây: cấp học bổng cho những người thuộc diện "tài năng". Lập luận của tác giả bài viết: việc trợ cấp này thực ra chỉ giúp con nhà giàu chứ chẳng giúp gì cho con nhà nghèo cả. Vì con nhà nghèo thì thường có điểm học bạ ở phổ thông và điểm thi SAT/ACT thấp hơn (không có đủ điều kiện bằng con nhà giàu). Cái này xem ra hơi giống vụ trường chuyên, lớp chọn ở phổ thông và chương trình tài năng, tiên tiến ở đại học của VN đây.
Nếu vẫn tiếp tục cách làm hiện nay, thì những người không thuộc diện được xét cấp học bổng "tài năng" không những phải đóng học phí để trả chi phí học tập của mình, mà còn phải gánh phần chi phí rất nặng của những người được cấp học bổng nữa. Kết quả là học phí ngày càng cao ngất ngưởng, khiến cho nhiều người cần học để cải thiện thu nhập nhưng không thể nào trả nổi học phí và phải nghỉ học. Khoảng cách giàu nghèo vì thế ngày càng tăng, và công bằng xã hội bị ảnh hưởng ...
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm: 3 năm là thời gian đào tạo đại học chuẩn của châu Âu theo Tiến trình Bologna (hệ thống 3-5-8 tức 3 năm xong đại học, thêm 2 năm tức sau 5 năm xong thạc sĩ, thêm 3 năm tức sau 8 năm xong tiến sĩ), nhưng ở Mỹ thì vẫn tiếp tục chương trình đại học chuẩn là 4 năm (tất nhiên không kể người học rút ngắn thời gian).
Theo tác giả bài viết, thực ra trước đây Mỹ cũng đã từng đào tạo đại học trong 3 năm, cho đến khi trường đại học Harvard đưa ra yêu cầu phải kéo dài thành 4 năm (việc này xảy ra năm 1652). Hiện nay, một số đại học của Mỹ đang thử nghiệm áp dụng chương trình đại học trong 3 năm, và kết quả rất khả quan. Vì vậy, chẳng có lý do gì mà không trở lại chương trình 3 năm để tiết kiệm thời gian và chi phí.
Việc kéo dài thời gian học ra thành 4 năm, theo những người ủng hộ việc làm này, là nhằm có thời gian để sinh viên học những môn học "khai phóng" (liberal arts trong tiếng Anh, tạm dịch "khai phóng" vì chưa tìm được từ nào hay hơn). Nhưng trong khi chi phí học tập ngày càng tăng, mà lợi ích của việc học thì không đo được rõ ràng (xem lại mục 1), thì việc đòi hỏi giảm thời gian để giảm chi phí xem ra cũng rất hợp lý!
(còn tiếp)
Nhưng ... bài viết gì mà lạ vậy? Chẳng phải giáo dục đại học Mỹ cho đến nay vẫn được cả thế giới thừa nhận là nền đại học tốt nhất thế giới, là điểm đến mơ ước của mọi người muốn theo học ở bậc đại học đó sao? Vậy, nếu đã tốt như thế, sao bây giờ lại bàn đến 8 biện pháp để cải thiện nó, y như là nó đang đứng trước một cơn khủng hoảng hoặc thực sự hoặc tiềm ẩn nào đó vậy? Có nhầm lẫn gì đây chăng?
Không đâu, chẳng có nhầm lẫn gì hết! Chính tác giả của bài viết cũng nhắc lại những điều mà tôi mới viết trong đoạn trên: nền đại học Mỹ là mơ ước của toàn thế giới. Nhưng theo tác giả thì điều đó chỉ đúng với những trường đại học tốt nhất nước Mỹ, những tên tuổi như Harvard, Yale, Stanford, UCLA, Caltech vv gì gì đó thôi. Cứ cho rằng có vài chục trường như thế, thậm chí vài trăm đi chăng nữa, thì con số đó chẳng thấm vào đâu so với con số trên 4000 trường đại học và cao đẳng của Mỹ. Trong khi đó, chất lượng của những trường còn lại trong số 4000 trường nói trên thì không những không thể nào sánh được với những trường hàng đầu, mà đôi khi thậm chí phải nói - theo tác giả của bài viết, tất nhiên - là ... tệ hại nữa! Ai không tin, xin vào link tôi đã đưa để đọc, thì rõ ngay thôi!
Vậy chứ 8 biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ là gì? Xin đọc danh sách 8 biện pháp ấy ở dưới đây, bằng tiếng Anh, theo sau là phần giải thích dựa trên ý của tác giả kèm lời "bình loạn" của tôi:
1. Measure student learning | 2. End merit aid | 3. Three-year degrees | 4. Core curriculum | 5. More homework | 6. Encourage completion | 7. Cap athletic subsidies | 8. Rethink remediation
1. Đo lường việc học của sinh viên | 2. Ngưng cấp học bổng "tài năng" | 3. Cấp bằng đại học sau 3 năm (thay vì 4 năm) | 4. Cải cách chương trình cốt lõi | 5. Tăng bài tập về nhà | 6. Khuyến khích hoàn tất khóa học | 7. Cắt giảm hỗ trợ thể dục thể thao | 8. Xem xét lại việc phụ đạo.
Đọc đến đây thì chắc chắn mọi người đều đặt câu hỏi, tại sao lại là 8 giải pháp này mà không là các giải pháp khác? Câu trả lời của tác giả bài viết là như sau: 8 giải pháp vừa nêu thực ra là 8 tồn tại cần giải quyết, và nếu giải quyết xong 8 vấn đề đó thì chất lượng của giáo dục đại học Mỹ ắt sẽ tăng lên đáng kể. Ta hãy xét từng điểm dưới đây:
1. Đo lường việc học của sinh viên: Có một thực tế là sinh viên Mỹ được tin là học hành khá nhàn hạ, chủ động học theo nhu cầu và lựa chọn của mình mà không phải chịu sức ép của thầy cô, sự kiểm soát của nhà trường. Nhưng chính vì vậy mà không ai biết sinh viên Mỹ học xong cái bằng đại học thì thực ra học được cái gì. Cho đến gần đây, dư luận bắt đầu đòi hỏi phải đo lường việc học của sinh viên sau khi ra trường (nói theo kiểu VN thì đó là đánh giá chuẩn đầu ra đấy, tức đo năng lực đạt được của sinh viên sau khi học). Các cơ quan kiểm định cũng bắt đầu quan tâm đến đầu ra, chứ không chỉ là đầu vào và quá trình hoạt động như trước giờ họ vẫn làm nữa.
Và để đáp ứng đòi hỏi này đã có một số nghiên cứu được thực hiện, mà kết quả của chúng cho thấy rằng ... dường như sinh viên học xong đại học đã không học được gì hết!!! Nói cách khác, học đại học chẳng có tác dụng gì hết, ngoài việc được cấp cho một tờ giấy! Nguy quá! Có thể đọc về những nghiên cứu ấy ở nhiều nơi, chẳng hạn như ở đây này. Và còn nhiều nữa, cứ lên google search mấy từ "study finds college students learn nothing" là ra hết.
2. Ngưng cấp học bổng "tài năng": Có vẻ là một điều vô lý, phải không? Vì một trong những điểm "hấp dẫn" của đại học Mỹ chính là chỗ này đây: cấp học bổng cho những người thuộc diện "tài năng". Lập luận của tác giả bài viết: việc trợ cấp này thực ra chỉ giúp con nhà giàu chứ chẳng giúp gì cho con nhà nghèo cả. Vì con nhà nghèo thì thường có điểm học bạ ở phổ thông và điểm thi SAT/ACT thấp hơn (không có đủ điều kiện bằng con nhà giàu). Cái này xem ra hơi giống vụ trường chuyên, lớp chọn ở phổ thông và chương trình tài năng, tiên tiến ở đại học của VN đây.
Nếu vẫn tiếp tục cách làm hiện nay, thì những người không thuộc diện được xét cấp học bổng "tài năng" không những phải đóng học phí để trả chi phí học tập của mình, mà còn phải gánh phần chi phí rất nặng của những người được cấp học bổng nữa. Kết quả là học phí ngày càng cao ngất ngưởng, khiến cho nhiều người cần học để cải thiện thu nhập nhưng không thể nào trả nổi học phí và phải nghỉ học. Khoảng cách giàu nghèo vì thế ngày càng tăng, và công bằng xã hội bị ảnh hưởng ...
3. Cấp bằng đại học sau 3 năm: 3 năm là thời gian đào tạo đại học chuẩn của châu Âu theo Tiến trình Bologna (hệ thống 3-5-8 tức 3 năm xong đại học, thêm 2 năm tức sau 5 năm xong thạc sĩ, thêm 3 năm tức sau 8 năm xong tiến sĩ), nhưng ở Mỹ thì vẫn tiếp tục chương trình đại học chuẩn là 4 năm (tất nhiên không kể người học rút ngắn thời gian).
Theo tác giả bài viết, thực ra trước đây Mỹ cũng đã từng đào tạo đại học trong 3 năm, cho đến khi trường đại học Harvard đưa ra yêu cầu phải kéo dài thành 4 năm (việc này xảy ra năm 1652). Hiện nay, một số đại học của Mỹ đang thử nghiệm áp dụng chương trình đại học trong 3 năm, và kết quả rất khả quan. Vì vậy, chẳng có lý do gì mà không trở lại chương trình 3 năm để tiết kiệm thời gian và chi phí.
Việc kéo dài thời gian học ra thành 4 năm, theo những người ủng hộ việc làm này, là nhằm có thời gian để sinh viên học những môn học "khai phóng" (liberal arts trong tiếng Anh, tạm dịch "khai phóng" vì chưa tìm được từ nào hay hơn). Nhưng trong khi chi phí học tập ngày càng tăng, mà lợi ích của việc học thì không đo được rõ ràng (xem lại mục 1), thì việc đòi hỏi giảm thời gian để giảm chi phí xem ra cũng rất hợp lý!
(còn tiếp)
Wednesday, February 9, 2011
"Ba vấn nạn của giáo dục đại học"?
Đó là phần dịch của tôi cho cái tựa tiếng Anh của bài viết mới đăng trên trang Inside Higher Education ngày 3/2/2011, tựa gốc là "3 Problems with 'Higher Education' ".
Các bạn đọc ở đây. Còn ai không đọc được tiếng Anh, hoặc làm biếng, hoặc bận rộn, thì đọc tóm tắt dưới đây:
Bài viết này là mục điểm sách, giới thiệu cuốn sách mới xuất bản có tựa là "Higher Education? How Colleges Are Wasting Our Money and Failing Our Kids and What We Can Do About It" do 2 tác giả Andrew Hacker và Claudia Dreifus viết. Nói chung, người điểm sách không đồng tình với các tác giả, nhưng vẫn cho rằng cuốn sách này đáng đọc, ngay cả nếu vì cuốn sách này có những vấn đề nghiêm trọng của nó.
Ba vấn đề mà các tác giả của cuốn sách nêu ra là Giảng viên, Công nghệ giáo dục (educational technology), và Kinh tế học giáo dục (economics of education). Cả 3 vấn đề này theo người điểm sách là không đúng. Giảng viên, theo các tác giả cuốn sách thì lười biếng và dạy những điều không ăn nhập gì đến cuộc sống. Công nghệ giáo dục thì chẳng có tác động gì (?), còn kinh tế học giáo dục thì cho rằng giáo dục đại học chỉ làm tốn tiền vô ích. Cả 3 điều trên đều ... sai trầm trọng, theo ý kiến của người điểm sách.
Tốt nhất là chúng ta đọc cả 2 bài này để theo dõi cuộc tranh luận thú vị này! Và một câu hỏi cho tất cả các bạn, đó là: vậy còn giáo dục đại học của VN, thì các vấn đề của chúng là gì? Phải chăng 3 vấn đề đã nêu trong cuốn sách là ... dựa trên kinh nghiệm của GDĐH VN? Biết đâu?
Các bạn đọc ở đây. Còn ai không đọc được tiếng Anh, hoặc làm biếng, hoặc bận rộn, thì đọc tóm tắt dưới đây:
Bài viết này là mục điểm sách, giới thiệu cuốn sách mới xuất bản có tựa là "Higher Education? How Colleges Are Wasting Our Money and Failing Our Kids and What We Can Do About It" do 2 tác giả Andrew Hacker và Claudia Dreifus viết. Nói chung, người điểm sách không đồng tình với các tác giả, nhưng vẫn cho rằng cuốn sách này đáng đọc, ngay cả nếu vì cuốn sách này có những vấn đề nghiêm trọng của nó.
Ba vấn đề mà các tác giả của cuốn sách nêu ra là Giảng viên, Công nghệ giáo dục (educational technology), và Kinh tế học giáo dục (economics of education). Cả 3 vấn đề này theo người điểm sách là không đúng. Giảng viên, theo các tác giả cuốn sách thì lười biếng và dạy những điều không ăn nhập gì đến cuộc sống. Công nghệ giáo dục thì chẳng có tác động gì (?), còn kinh tế học giáo dục thì cho rằng giáo dục đại học chỉ làm tốn tiền vô ích. Cả 3 điều trên đều ... sai trầm trọng, theo ý kiến của người điểm sách.
Tốt nhất là chúng ta đọc cả 2 bài này để theo dõi cuộc tranh luận thú vị này! Và một câu hỏi cho tất cả các bạn, đó là: vậy còn giáo dục đại học của VN, thì các vấn đề của chúng là gì? Phải chăng 3 vấn đề đã nêu trong cuốn sách là ... dựa trên kinh nghiệm của GDĐH VN? Biết đâu?
Sunday, December 26, 2010
"Những mâu thuẫn của giáo dục đại học TQ"
Bài viết này của Philip Altbach tôi đã dịch và gửi cho Tia Sáng cách đây ít lâu. Nay lên trang mạng của báo Tia Sáng để đọc bài, thấy đã được đăng lên. Nên đăng lại lên đây cho mọi người đọc đỡ buồn, vì lâu nay tôi bận quá chẳng viết được bài nào hết, "blog bliếc" vắng tanh, buồn hiu hắt. Thì ... lâu lâu cũng hết vốn, và hết sức nữa, nên cần nghỉ chút vậy mà!
Các bạn đọc bài này đỡ buồn nhé. Bản trên Tia Sáng có thể tìm thấy tại đây.
-----
Kết quả xếp hạng năm 2010 của ĐH Giao thông Thượng Hải được công bố ngày 15/8/2010 cho thấy sự tiến bộ đáng kinh ngạc của giáo dục đại học của Trung Quốc. Chỉ trong vòng chưa đầy một thập niên kể từ bảng xếp hạng này ra đời vào năm 2003, số lượng trường đại học Trung Quốc trong danh sách 500 vị trí đầu bảng đã tăng từ 16 lên 34 trường, trong đó có hai trường lần đầu tiên lọt vào danh sách 200 trường tốt nhất thế giới là ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa(1).
Phải chăng giáo dục đại học Trung Quốc đã có thể sánh vai với các trường đại học phương Tây? Trong bài viết ngắn của mình đăng trên tờ Inside Higher Education vào tháng 10 vừa qua, GS Philip Altbach, nhà nghiên cứu giáo dục quốc tế hàng đầu thế giới, đã cho thấy bức tranh giáo dục đại học của nước này không chỉ có những gam màu sáng. Vẫn còn khá nhiều vấn đề đang gây trở ngại sự phát triển nền đại học của Trung Quốc mà Việt Nam có thể học hỏi để tránh trong quá trình phát triển các đại học của mình.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến các độc giả.
Số liệu thống kê gần đây liên quan đến việc sinh viên Trung Quốc ồ ạt đi học ở nước ngoài cùng quan điểm của Trung Quốc về vấn đề chuyển dịch dân cư đã đặt ra những câu hỏi thú vị liên quan đến nền giáo dục đại học của Trung Quốc cả hiện tại cũng như tương lai, đặc biệt là ở trình độ ưu tú. Những con số kỷ lục sinh viên Trung Quốc tiếp tục đi học ở nước ngoài – trong đó có đến 270.000 người tự trang trải học phí và (chỉ) có khoảng 25 phần trăm trở về lại Trung Quốc, một điều thật đáng ngạc nhiên trong bối cảnh nền kinh tế của phương Tây đang suy thoái còn kinh tế Trung Quốc thì lại đang phát triển nhanh chóng (số liệu lấy từ báo cáo của Willy Lam thuộc Jamestown Foundation).
Gần 100.000 sinh viên Trung Quốc đang học tập tại Hoa Kỳ. Đồng thời, Trung Quốc cũng thu hút 240.000 sinh viên quốc tế đếm học, một con số tương đương với số sinh viên Trung Quốc đi học ở nước ngoài. Hầu hết sinh viên quốc tế tại Trung Quốc đến từ châu Á, nhưng ngày càng có nhiều sinh viên đến từ các nước phương Tây, trong đó có 18.000 sinh viên Hoa Kỳ. Hiện không có thông tin về tỷ lệ các sinh viên theo học một chương đại học so với những sinh viên chỉ đến Trung Quốc một học kỳ hoặc một năm hoặc không học. Để khuyến khích thêm sinh viên đến học, Chính phủ Trung Quốc đã thông báo sẽ cung cấp 20.000 suất học bổng cho sinh viên quốc tế. Trung Quốc đang ngày càng trở nên quan trọng không chỉ trong việc gửi sinh viên ra nước ngoài – thực tế là nếu hai đại gia Trung Quốc và Ấn Độ giảm số sinh viên đi học nước ngoài của mình thì bộ phận giáo dục quốc tế tại hầu hết các nước xuất khẩu giáo dục lớn hiện nay hẳn sẽ rơi vào khủng hoảng; Trung Quốc còn đang trở thành một địa chỉ quan trọng để tiếp nhận sinh viên từ nước ngoài đến học nữa.
Ngoài số sinh viên đi du học, Willy Lam còn lưu ý rằng nhiều doanh nhân và các chuyên gia Trung Quốc cũng muốn theo đuổi sự nghiệp ở nước ngoài; ông khẳng định rằng họ thích môi trường minh bạch và ít yếu tố bất ngờ của môi trường xã hội mà họ tìm thấy bên ngoài Trung Quốc.
Điều này nói lên điều gì về giáo dục đại học của đất nước này? Nó cho thấy rằng mặc dù các đại học hàng đầu của Trung Quốc đã được đầu tư lớn và có sự cải thiện chất lượng rõ ràng, nhưng việc xây dựng nên một môi trường học tập nơi có thể giữ lại những sinh viên "tốt nhất và sáng chói nhất" cũng như thu hút trở lại những sinh viên đã đi du học vẫn có nhiều khó khăn. Tiền lương thấp, phải nói là mức lương thuộc hàng thấp nhất thế giới, những vấn đề liên quan đến việc tiếp cận thông tin, "giao phối cận huyết" (tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp của chính mình), những nghi ngại liên quan đến tự do học thuật ở một số lĩnh vực, và rất nhiều quan hệ cá nhân đang là trở ngại nghiêm trọng trong việc tạo ra một nền văn hóa học thuật thuộc "đẳng cấp thế giới" tương xứng cơ sở hạ tầng học tập đầy ấn tượng của các trường đại học hàng đầu của Trung Quốc hiện nay. Những báo cáo liên tục về các vụ đạo văn và các hình thức tham nhũng học thuật (tất nhiên điều này không chỉ hạn chế ở Trung Quốc) còn bổ sung thêm vào những thách thức hiện nay.
Mặc dù có những thách thức và trở ngại, Trung Quốc đang nhanh chóng trở thành một siêu cường về học thuật – các nghiên cứu đã ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ về số bài báo xuất bản trong các tạp chí khoa học từ các học giả Trung Quốc, việc tăng lên nhanh chóng số các bằng sáng chế cũng như các số đo khác khác về năng suất khoa học. Tuy nhiên như đã ghi nhận ở trên, giáo dục đại học TQ vẫn còn rất nhiều vấn đề quan trọng cần được giải quyết.
---
Ghi chú:
(1) Xem chi tiết tại đây: http://www.arwu.org/ARWU_2010_press_release.jsp
---
Bình luận thêm chỗ in nghiêng đậm trong bài viết:
TQ mà còn bị chê như thế (lương thấp, giao phối cận huyết, thiếu tự do học thuật), thì VN đến bao giờ mới có trường đạt đẳng cấp quốc tế đây? 2060 có khi cũng còn là phát biểu ... ngoại giao của GS Marginson, không biết chừng?
Các bạn đọc bài này đỡ buồn nhé. Bản trên Tia Sáng có thể tìm thấy tại đây.
-----
Kết quả xếp hạng năm 2010 của ĐH Giao thông Thượng Hải được công bố ngày 15/8/2010 cho thấy sự tiến bộ đáng kinh ngạc của giáo dục đại học của Trung Quốc. Chỉ trong vòng chưa đầy một thập niên kể từ bảng xếp hạng này ra đời vào năm 2003, số lượng trường đại học Trung Quốc trong danh sách 500 vị trí đầu bảng đã tăng từ 16 lên 34 trường, trong đó có hai trường lần đầu tiên lọt vào danh sách 200 trường tốt nhất thế giới là ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa(1).
Phải chăng giáo dục đại học Trung Quốc đã có thể sánh vai với các trường đại học phương Tây? Trong bài viết ngắn của mình đăng trên tờ Inside Higher Education vào tháng 10 vừa qua, GS Philip Altbach, nhà nghiên cứu giáo dục quốc tế hàng đầu thế giới, đã cho thấy bức tranh giáo dục đại học của nước này không chỉ có những gam màu sáng. Vẫn còn khá nhiều vấn đề đang gây trở ngại sự phát triển nền đại học của Trung Quốc mà Việt Nam có thể học hỏi để tránh trong quá trình phát triển các đại học của mình.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến các độc giả.
Số liệu thống kê gần đây liên quan đến việc sinh viên Trung Quốc ồ ạt đi học ở nước ngoài cùng quan điểm của Trung Quốc về vấn đề chuyển dịch dân cư đã đặt ra những câu hỏi thú vị liên quan đến nền giáo dục đại học của Trung Quốc cả hiện tại cũng như tương lai, đặc biệt là ở trình độ ưu tú. Những con số kỷ lục sinh viên Trung Quốc tiếp tục đi học ở nước ngoài – trong đó có đến 270.000 người tự trang trải học phí và (chỉ) có khoảng 25 phần trăm trở về lại Trung Quốc, một điều thật đáng ngạc nhiên trong bối cảnh nền kinh tế của phương Tây đang suy thoái còn kinh tế Trung Quốc thì lại đang phát triển nhanh chóng (số liệu lấy từ báo cáo của Willy Lam thuộc Jamestown Foundation).
Gần 100.000 sinh viên Trung Quốc đang học tập tại Hoa Kỳ. Đồng thời, Trung Quốc cũng thu hút 240.000 sinh viên quốc tế đếm học, một con số tương đương với số sinh viên Trung Quốc đi học ở nước ngoài. Hầu hết sinh viên quốc tế tại Trung Quốc đến từ châu Á, nhưng ngày càng có nhiều sinh viên đến từ các nước phương Tây, trong đó có 18.000 sinh viên Hoa Kỳ. Hiện không có thông tin về tỷ lệ các sinh viên theo học một chương đại học so với những sinh viên chỉ đến Trung Quốc một học kỳ hoặc một năm hoặc không học. Để khuyến khích thêm sinh viên đến học, Chính phủ Trung Quốc đã thông báo sẽ cung cấp 20.000 suất học bổng cho sinh viên quốc tế. Trung Quốc đang ngày càng trở nên quan trọng không chỉ trong việc gửi sinh viên ra nước ngoài – thực tế là nếu hai đại gia Trung Quốc và Ấn Độ giảm số sinh viên đi học nước ngoài của mình thì bộ phận giáo dục quốc tế tại hầu hết các nước xuất khẩu giáo dục lớn hiện nay hẳn sẽ rơi vào khủng hoảng; Trung Quốc còn đang trở thành một địa chỉ quan trọng để tiếp nhận sinh viên từ nước ngoài đến học nữa.
Ngoài số sinh viên đi du học, Willy Lam còn lưu ý rằng nhiều doanh nhân và các chuyên gia Trung Quốc cũng muốn theo đuổi sự nghiệp ở nước ngoài; ông khẳng định rằng họ thích môi trường minh bạch và ít yếu tố bất ngờ của môi trường xã hội mà họ tìm thấy bên ngoài Trung Quốc.
Điều này nói lên điều gì về giáo dục đại học của đất nước này? Nó cho thấy rằng mặc dù các đại học hàng đầu của Trung Quốc đã được đầu tư lớn và có sự cải thiện chất lượng rõ ràng, nhưng việc xây dựng nên một môi trường học tập nơi có thể giữ lại những sinh viên "tốt nhất và sáng chói nhất" cũng như thu hút trở lại những sinh viên đã đi du học vẫn có nhiều khó khăn. Tiền lương thấp, phải nói là mức lương thuộc hàng thấp nhất thế giới, những vấn đề liên quan đến việc tiếp cận thông tin, "giao phối cận huyết" (tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp của chính mình), những nghi ngại liên quan đến tự do học thuật ở một số lĩnh vực, và rất nhiều quan hệ cá nhân đang là trở ngại nghiêm trọng trong việc tạo ra một nền văn hóa học thuật thuộc "đẳng cấp thế giới" tương xứng cơ sở hạ tầng học tập đầy ấn tượng của các trường đại học hàng đầu của Trung Quốc hiện nay. Những báo cáo liên tục về các vụ đạo văn và các hình thức tham nhũng học thuật (tất nhiên điều này không chỉ hạn chế ở Trung Quốc) còn bổ sung thêm vào những thách thức hiện nay.
Mặc dù có những thách thức và trở ngại, Trung Quốc đang nhanh chóng trở thành một siêu cường về học thuật – các nghiên cứu đã ghi nhận sự gia tăng mạnh mẽ về số bài báo xuất bản trong các tạp chí khoa học từ các học giả Trung Quốc, việc tăng lên nhanh chóng số các bằng sáng chế cũng như các số đo khác khác về năng suất khoa học. Tuy nhiên như đã ghi nhận ở trên, giáo dục đại học TQ vẫn còn rất nhiều vấn đề quan trọng cần được giải quyết.
---
Ghi chú:
(1) Xem chi tiết tại đây: http://www.arwu.org/ARWU_2010_press_release.jsp
---
Bình luận thêm chỗ in nghiêng đậm trong bài viết:
TQ mà còn bị chê như thế (lương thấp, giao phối cận huyết, thiếu tự do học thuật), thì VN đến bao giờ mới có trường đạt đẳng cấp quốc tế đây? 2060 có khi cũng còn là phát biểu ... ngoại giao của GS Marginson, không biết chừng?
Sunday, December 5, 2010
Điểm thi cao, năng lực thấp!
Tựa của entry này thực ra là được dịch từ tiếng Anh. Đó là tựa của một mẩu ý kiến đăng trên trang Ý kiến của tờ New York Times, vừa đăng ngày 3/12/2010, ở đây.
Ý kiến trên chỉ là một phần của cuộc tranh luận mới được mở ra với câu hỏi được đặt ra là "What is a college degree in China worth?" - Bằng đại học ở TQ có giá trị đến đâu?
Một cuộc tranh luận rất đáng đọc, vì nó chỉ ra nhược điểm cơ bản của giáo dục đại học TQ, là một nền đại học vốn phát triển rất nhanh trong vòng 10 năm qua, và hiện nay đã tạo được một số thành quả nhất định. Ví dụ, đã có một số trường ĐH hàng đầu của TQ như ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa lọt vào top 200 của ARWU năm 2010 này (xem ở đây). Thành quả này đáng tự hào lắm chứ, phải không?
Nhưng có phải là mọi việc đang rất tốt, giáo dục ĐH Trung Quốc chỉ việc tiếp tục phát triển theo con đường của mình đã vạch ra hay không? Theo các học giả có ý kiến đang được đưa ra trong cuộc tranh luận kia, mọi việc không hẳn chỉ có màu hồng, mà còn có cả màu tối. Thậm chí có lẽ gam màu tối là chủ đạo trên bức tranh giáo dục ĐH của TQ nữa.
Này nhé, các kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu độc lập Mc Kinsey cho biết không đến 10% số sinh viên TQ tốt nghiệp có đủ khả năng để làm việc tại các công ty đa quốc gia tại TQ, và 44% lãnh đạo các công ty này cho rằng sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao là trở ngại lớn nhất cho việc phát triển của các công ty này trong tương lai. Có thể tìm thấy link dẫn đến các nghiên cứu này trong bài viết đang được đề cập đến trong entry này, mà đường link đã được đưa ở trên.
Nói cách khác, nếu đánh giá chất lượng giáo dục đại học của TQ thông qua chất lượng của sinh viên tốt nghiệp thì rõ ràng là giáo dục đại học TQ vẫn chưa thể nói là đã thành công, bất kể những đầu tư to lớn của chính phủ và toàn xã hội, cũng như sự phát triển vượt bậc về mặt số lượng của giáo dục ĐH TQ trong những năm qua. Tức là giáo dục đại học của TQ nhìn chung vẫn là chất lượng thấp!
Tại sao thế? Tác giả bài viết của chúng ta, mà tờ New York Times đã giới thiệu như sau
Nền giáo dục ứng thí nó như thế nào nhỉ? Hãy đọc đoạn dưới đây, một đoạn thực sự đáng đọc, ngắn gọn mà đầy đủ, rõ ràng về căn nguyên, biểu hiện và hậu quả của cái gọi là nền giáo dục ứng thí của TQ mà ảnh hưởng của nó ở VN là không hề nhỏ:
Vậy phải làm sao? Ái chà chà ... Câu hỏi khó đây.
Tác giả của chúng ta cũng trả lời, nhưng hình như không được rõ ràng, đầy đủ như phần mới trích dẫn, mà có vẻ rụt rè, không mấy tự tin, như sau:
TQ, một con rồng đang lên, với mấy trường ĐH trong top 200 của ARWU (nhớ nhé, ARWU chứ không phải là một hệ thống xếp hạng kém ổn định nào đâu nhé), mà còn như thế, thì VN sẽ ra sao, nếu chúng ta cứ hài lòng với một nền giáo dục ứng thí như hiện nay nhỉ?
À mà có hài lòng đâu nhỉ, thi cử của mình thay đổi mãi đấy thôi, là do chưa hài lòng nên mới thay đổi chứ?
Ái chà ... Một vấn đề khó quá chừng chừng! Một câu hỏi lớn không lời đáp ...
Thôi thì khuyến mãi tấm hình này vậy. Bạn có thấy quen quen không, ừ, giáo viên ngồi dán túi bài thi đấy, giống VN ghê chưa! À mà hình này lấy từ bài viết đã nêu đấy ạ, không phải của tôi, tất nhiên rồi.
Ý kiến trên chỉ là một phần của cuộc tranh luận mới được mở ra với câu hỏi được đặt ra là "What is a college degree in China worth?" - Bằng đại học ở TQ có giá trị đến đâu?
Một cuộc tranh luận rất đáng đọc, vì nó chỉ ra nhược điểm cơ bản của giáo dục đại học TQ, là một nền đại học vốn phát triển rất nhanh trong vòng 10 năm qua, và hiện nay đã tạo được một số thành quả nhất định. Ví dụ, đã có một số trường ĐH hàng đầu của TQ như ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa lọt vào top 200 của ARWU năm 2010 này (xem ở đây). Thành quả này đáng tự hào lắm chứ, phải không?
Nhưng có phải là mọi việc đang rất tốt, giáo dục ĐH Trung Quốc chỉ việc tiếp tục phát triển theo con đường của mình đã vạch ra hay không? Theo các học giả có ý kiến đang được đưa ra trong cuộc tranh luận kia, mọi việc không hẳn chỉ có màu hồng, mà còn có cả màu tối. Thậm chí có lẽ gam màu tối là chủ đạo trên bức tranh giáo dục ĐH của TQ nữa.
Này nhé, các kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu độc lập Mc Kinsey cho biết không đến 10% số sinh viên TQ tốt nghiệp có đủ khả năng để làm việc tại các công ty đa quốc gia tại TQ, và 44% lãnh đạo các công ty này cho rằng sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao là trở ngại lớn nhất cho việc phát triển của các công ty này trong tương lai. Có thể tìm thấy link dẫn đến các nghiên cứu này trong bài viết đang được đề cập đến trong entry này, mà đường link đã được đưa ở trên.
Nói cách khác, nếu đánh giá chất lượng giáo dục đại học của TQ thông qua chất lượng của sinh viên tốt nghiệp thì rõ ràng là giáo dục đại học TQ vẫn chưa thể nói là đã thành công, bất kể những đầu tư to lớn của chính phủ và toàn xã hội, cũng như sự phát triển vượt bậc về mặt số lượng của giáo dục ĐH TQ trong những năm qua. Tức là giáo dục đại học của TQ nhìn chung vẫn là chất lượng thấp!
Tại sao thế? Tác giả bài viết của chúng ta, mà tờ New York Times đã giới thiệu như sau
Yong Zhao is the University Distinguished Professor in the College of Education at Michigan State University. The author of "Catching Up or Leading the Way: American Education in the Age of Globalization," he often blogs about education issuescho rằng mọi thứ có thể truy nguyên về một điểm thôi, đó là môi trường giáo dục quá nhấn mạnh thi cử (tiếng Anh là a test-oriented educational environment). Hay, "một nền giáo dục ứng thí" theo cách nói của GS Văn Như Cương vào năm 2008, có thể tìm đọc bài gốc ở đây.
Nền giáo dục ứng thí nó như thế nào nhỉ? Hãy đọc đoạn dưới đây, một đoạn thực sự đáng đọc, ngắn gọn mà đầy đủ, rõ ràng về căn nguyên, biểu hiện và hậu quả của cái gọi là nền giáo dục ứng thí của TQ mà ảnh hưởng của nó ở VN là không hề nhỏ:
China invented the keju system, which used tests to select government officials. It was a great invention because it enabled talents from across the society to join the ruling class regardless of their family backgrounds. Hence, a great meritocracy could be created. But it evolved into a nightmare for China as the system gradually changed into one that tested memorization of Confucian classics.
Keju is dead now but its spirit is very alive in China today, in the form of gaokao, or the College Entrance Exam. It's the only exam that matters since it determines whether students can attend college and what kind of colleges they can attend. Because of its life-determining nature, gaokao has become the “baton” that conducts the whole education orchestra. Students, parents, teachers, school leaders and even local government officials all work together to get good scores. From a very young age, children are relieved of any other burden or deprived of opportunity to do anything else so they can focus on getting good scores.
The result is that Chinese college graduates often have high scores but low ability. Those who are good at taking tests go to college, which also emphasizes book knowledge. But when they graduate, they find out that employers actually want much more than test scores.
Vậy phải làm sao? Ái chà chà ... Câu hỏi khó đây.
Tác giả của chúng ta cũng trả lời, nhưng hình như không được rõ ràng, đầy đủ như phần mới trích dẫn, mà có vẻ rụt rè, không mấy tự tin, như sau:
Chinese educators are well aware of the problems with the gaokao system and have been trying to move away from the excessive focus on testing. But seeking other valid indicators of strong academic records will take time, especially in a country of 1.3 billion people.
TQ, một con rồng đang lên, với mấy trường ĐH trong top 200 của ARWU (nhớ nhé, ARWU chứ không phải là một hệ thống xếp hạng kém ổn định nào đâu nhé), mà còn như thế, thì VN sẽ ra sao, nếu chúng ta cứ hài lòng với một nền giáo dục ứng thí như hiện nay nhỉ?
À mà có hài lòng đâu nhỉ, thi cử của mình thay đổi mãi đấy thôi, là do chưa hài lòng nên mới thay đổi chứ?
Ái chà ... Một vấn đề khó quá chừng chừng! Một câu hỏi lớn không lời đáp ...
Thôi thì khuyến mãi tấm hình này vậy. Bạn có thấy quen quen không, ừ, giáo viên ngồi dán túi bài thi đấy, giống VN ghê chưa! À mà hình này lấy từ bài viết đã nêu đấy ạ, không phải của tôi, tất nhiên rồi.

Saturday, September 11, 2010
"Cẩn trọng trong quan hệ"
Bài viết này của tác giả Philip Altbach, một nhà nghiên cứu về giáo dục đại học quốc tế người Mỹ, GS tại ĐH Boston, được đăng trên blog The World View (Nhãn quan thế giới) của tờ Inside Higher Education ngày 18/8 vừa qua.
Do nó có liên quan đến giáo dục đại học của VN và những vụ scandals liên quan đến liên kết đào tạo đại học trong thời gian gần đây, tôi có nhờ Khôi (con trai tôi) dịch và sau đó gửi cho báo Văn hóa Nghệ An, một tờ tạp chí ở một địa phương nhỏ mà tôi chỉ mới quan tâm đến gần đây do lời giới thiệu của bạn bè. Đọc, và thấy thích nó, nên nhận lời cộng tác.
Nay báo đã đăng, nên theo đúng luật chơi (luật bất thành văn), tôi "được quyền" đem về blog của mình để lưu giữ và giới thiệu với thân hữu của blog này "thưởng thức".
Các bạn đọc, và có gì thì cho ý kiến nhé! À quên, ai muốn đọc Văn hóa Nghệ An thì vào địa chỉ này: http://vanhoanghean.vn/index.php.
------
Cẩn trọng trong quan hệ: một trường hợp cần cảnh báo[1]
Tác giả: Philip G. Altbach
Thứ sáu, 10 Tháng 9 2010 15:38
Vừa qua, báo chí trong nước có phanh phui thông tin về một trường đại học “dỏm” của Mỹ là ĐH Irvine có liên kết với một trong những đại học hàng đầu của Việt Nam là ĐH Quốc gia Hà Nội. Mặc dù đã chấm dứt từ năm 2008 vì ĐHQG HN chê đối tác là không có thứ hạng cao, nhưng liên kết này cũng đã kéo dài nhiều năm, và đã thực hiện đến 10 khóa đào tạo với tổng số học viên tuyển vào lên đến 300 người. Đáng nói hơn nữa, khi bị báo chí phanh phui, lãnh đạo ĐH Quốc gia Hà Nội dường không phân biệt được sự hợp pháp của một đơn vị với tình trạng được hoặc không được kiểm định của một trường đại học như ĐH Irvine. Vì thế mới có những phát biểu nhầm lẫn và đáng tiếc khiến dư luận phản ứng.
Trong thời đại nối mạng thông tin và toàn cầu hóa như hiện nay, hầu như không có việc gì xảy ra ở một nơi mà thông tin lại không lan ra khắp thế giới. Vụ liên kết với đại học “dỏm” của ĐH Quốc gia Hà Nội cũng đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Bài viết dưới đây của GS Philip Altbach, một giáo sư và nhà nghiên cứu giáo dục quốc tế hàng đầu của Mỹ hiện nay với rất nhiều bài viết đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam, đã phân tích những bài học cần rút kinh nghiệm qua vụ việc này để tránh những sai lầm tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
Bài viết trên vừa được đăng vào ngày 18/8/2010 trên trang blog mang tên World View, vốn được xem như một phụ trương trên mạng của tờ tạp chí giáo dục đại học nổi tiếng Inside Higher Education của Mỹ. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến tất cả các bạn.
------------
Trong giáo dục đại học quốc tế, các trường thường bị xã hội đánh giá qua các mối quan hệ của họ. Vì vậy, việc chọn lọc cẩn thận các đối tác của mình đóng vai trò tối quan trọng. Các trường cần chắc chắn rằng thương hiệu và uy tín của mình được bảo vệ, và quan hệ với đối tác đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Một trường hợp đáng cảnh báo đã xuất hiện tại Việt Nam. Đại học Quốc gia Hà Nội, một trong những trường hàng đầu tại Việt Nam, hiện đang phấn đấu trở thành trường đẳng cấp quốc tế, đã có mối quan hệ chính thức với Đại học Irvine tại Hoa Kỳ. Tôi xin miễn bình luận chi tiết về Đại học Irvine vì tôi không muốn bị họ kiện, chỉ xin nêu rằng Đại học Irvine không được kiểm định bởi bất kỳ tổ chức kiểm định nào được Bộ Giáo dục Hoa Kỳ (U.S. Education Department) hoặc Hội đồng Kiểm định Giáo dục Đại học (CHEA) công nhận. Điều này có nghĩa là sinh viên của trường không đủ điều kiện nhận hỗ trợ tài chính của chính phủ và chính quyền ở một số bang sẽ xem bằng cấp của sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Irvine là không đáp ứng được những yêu cầu về giáo dục dành cho công chức. Sẽ không thể tìm thấy vị trí của Đại học Irvine trên bất cứ bảng xếp hạng đại học thông dụng nào – thậm chí không có ngay cả ở vị trí cuối bảng.
Dường như ĐHQG HN đã chấm dứt quan hệ của họ với Đại học Irvine, nhưng không phải mọi tin tức có đề cập đến quan hệ với Đại học Irvine trên website của họ đều đã được loại bỏ. ĐHQG HN có nhiều mối quan hệ trên thế giới – theo website của họ thì họ có đến 88 mối quan hệ, bao gồm 19 quan hệ với các trường đại học tại Hoa Kỳ, 27 quan hệ với các tổ chức của Nhật Bản, bao gồm một số tập đoàn lớn như Fujitsu, 2 quan hệ với các trường của Anh, v.v…. Số lượng các đối tác ở đây nhiều một cách phi thực tế. Thật ra, trường hợp của ĐHQG HN không phải duy nhất. Nhiều trường đại học trên thế giới dường như chỉ quan tâm đến việc có được những biên bản ghi nhớ (MoU) hoặc các thỏa thuận hợp tác vốn chẳng có ý nghĩa gì hơn là một tờ giấy ghi lại các quan hệ đó. Những bản thỏa thuận này trông khá “xôm” khi đăng trên website, lại có vẻ là dấu hiệu của sự quốc tế hóa và bằng chứng cho các hợp tác toàn cầu. Nhưng trong thực tế, những mối quan hệ như vậy không có mấy ý nghĩa đối các bên tham gia.
Có lẽ không ai muốn chỉ trích một cách bất công đối với ĐHQG HN, vì nhiều trường đại học ở các nước đang phát triển ra những quyết định kỳ lạ khi lựa chọn đối tác vì họ thiếu thông tin, do họ bị ảnh hưởng bởi những lợi nhuận do các đối tác hứa hẹn, hoặc do tác động của các mối quan hệ cá nhân phức tạp. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, các cá nhân ở cấp lãnh đạo cao nhất hoặc các tổ chức có quan hệ chặt chẽ với chính phủ như ĐHQG thường sẽ nhận được rất nhiều yêu cầu hợp tác từ các trường đại học nước ngoài và thường không sẵn sàng từ chối. Bên cạnh đó, họ hầu như chẳng mất gì khi đồng ý thiết lập quan hệ.
Nhưng ở đây có những bài học cần chú ý. Bài học đầu tiên là các trường rất dễ bị dính vào những mối quan hệ không cân xứng. Những mối quan hệ này có thể gây tổn hại cho danh tiếng của trường và, quan trọng hơn, gây tổn hại cho sinh viên và giảng viên khi họ bị dính líu với những đối tác có vị trí hoặc danh tiếng thấp hơn ở trong nước cũng như trên thế giới. Có quá nhiều mối quan hệ quốc tế như thế có thể tạo ra những vấn đề cho việc đảm bảo chất lượng và quản lý cũng như bảo vệ danh tiếng. Và một trường đại học với quá nhiều đối tác có thể bị xem là vô trách nhiệm hoặc ít nhất là không biết chọn lọc.
May mắn thay, những vấn đề trên có thể được giải quyết một cách dễ dàng. Yếu tố quan trọng nhất là có được một hoặc hai nhà quản lý hiểu rõ về bức tranh giáo dục đại học thế giới. Bỏ thì giờ nghiên cứu và khám phá những tác động của các mối quan hệ cũng là một việc quan trọng. Bên cạnh đó, phải có một chiến lược giáo dục quốc tế rành mạch, tương tự như một chính sách ngoại giao của nhà trường, từ đó vạch ra những chiến lược và kế hoạch cụ thể, cung cấp một lộ trình cho các liên kết quốc tế. Đối với các nước đang phát triển, yếu tố quan trọng nhất có lẽ là sự cam kết phục vụ lợi ích cao nhất của nhà trường và của quốc gia, hơn là đồng ý với mọi lời mời gọi hợp tác từ bên ngoài.
-------------
Nguồn: http://www.insidehighered.com/blogs/the_world_view/the_company_we_keep_a_cautionary_tale
Do nó có liên quan đến giáo dục đại học của VN và những vụ scandals liên quan đến liên kết đào tạo đại học trong thời gian gần đây, tôi có nhờ Khôi (con trai tôi) dịch và sau đó gửi cho báo Văn hóa Nghệ An, một tờ tạp chí ở một địa phương nhỏ mà tôi chỉ mới quan tâm đến gần đây do lời giới thiệu của bạn bè. Đọc, và thấy thích nó, nên nhận lời cộng tác.
Nay báo đã đăng, nên theo đúng luật chơi (luật bất thành văn), tôi "được quyền" đem về blog của mình để lưu giữ và giới thiệu với thân hữu của blog này "thưởng thức".
Các bạn đọc, và có gì thì cho ý kiến nhé! À quên, ai muốn đọc Văn hóa Nghệ An thì vào địa chỉ này: http://vanhoanghean.vn/index.php.
------
Cẩn trọng trong quan hệ: một trường hợp cần cảnh báo[1]
Tác giả: Philip G. Altbach
Thứ sáu, 10 Tháng 9 2010 15:38
Vừa qua, báo chí trong nước có phanh phui thông tin về một trường đại học “dỏm” của Mỹ là ĐH Irvine có liên kết với một trong những đại học hàng đầu của Việt Nam là ĐH Quốc gia Hà Nội. Mặc dù đã chấm dứt từ năm 2008 vì ĐHQG HN chê đối tác là không có thứ hạng cao, nhưng liên kết này cũng đã kéo dài nhiều năm, và đã thực hiện đến 10 khóa đào tạo với tổng số học viên tuyển vào lên đến 300 người. Đáng nói hơn nữa, khi bị báo chí phanh phui, lãnh đạo ĐH Quốc gia Hà Nội dường không phân biệt được sự hợp pháp của một đơn vị với tình trạng được hoặc không được kiểm định của một trường đại học như ĐH Irvine. Vì thế mới có những phát biểu nhầm lẫn và đáng tiếc khiến dư luận phản ứng.
Trong thời đại nối mạng thông tin và toàn cầu hóa như hiện nay, hầu như không có việc gì xảy ra ở một nơi mà thông tin lại không lan ra khắp thế giới. Vụ liên kết với đại học “dỏm” của ĐH Quốc gia Hà Nội cũng đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Bài viết dưới đây của GS Philip Altbach, một giáo sư và nhà nghiên cứu giáo dục quốc tế hàng đầu của Mỹ hiện nay với rất nhiều bài viết đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam, đã phân tích những bài học cần rút kinh nghiệm qua vụ việc này để tránh những sai lầm tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
Bài viết trên vừa được đăng vào ngày 18/8/2010 trên trang blog mang tên World View, vốn được xem như một phụ trương trên mạng của tờ tạp chí giáo dục đại học nổi tiếng Inside Higher Education của Mỹ. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến tất cả các bạn.
------------
Trong giáo dục đại học quốc tế, các trường thường bị xã hội đánh giá qua các mối quan hệ của họ. Vì vậy, việc chọn lọc cẩn thận các đối tác của mình đóng vai trò tối quan trọng. Các trường cần chắc chắn rằng thương hiệu và uy tín của mình được bảo vệ, và quan hệ với đối tác đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Một trường hợp đáng cảnh báo đã xuất hiện tại Việt Nam. Đại học Quốc gia Hà Nội, một trong những trường hàng đầu tại Việt Nam, hiện đang phấn đấu trở thành trường đẳng cấp quốc tế, đã có mối quan hệ chính thức với Đại học Irvine tại Hoa Kỳ. Tôi xin miễn bình luận chi tiết về Đại học Irvine vì tôi không muốn bị họ kiện, chỉ xin nêu rằng Đại học Irvine không được kiểm định bởi bất kỳ tổ chức kiểm định nào được Bộ Giáo dục Hoa Kỳ (U.S. Education Department) hoặc Hội đồng Kiểm định Giáo dục Đại học (CHEA) công nhận. Điều này có nghĩa là sinh viên của trường không đủ điều kiện nhận hỗ trợ tài chính của chính phủ và chính quyền ở một số bang sẽ xem bằng cấp của sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Irvine là không đáp ứng được những yêu cầu về giáo dục dành cho công chức. Sẽ không thể tìm thấy vị trí của Đại học Irvine trên bất cứ bảng xếp hạng đại học thông dụng nào – thậm chí không có ngay cả ở vị trí cuối bảng.
Dường như ĐHQG HN đã chấm dứt quan hệ của họ với Đại học Irvine, nhưng không phải mọi tin tức có đề cập đến quan hệ với Đại học Irvine trên website của họ đều đã được loại bỏ. ĐHQG HN có nhiều mối quan hệ trên thế giới – theo website của họ thì họ có đến 88 mối quan hệ, bao gồm 19 quan hệ với các trường đại học tại Hoa Kỳ, 27 quan hệ với các tổ chức của Nhật Bản, bao gồm một số tập đoàn lớn như Fujitsu, 2 quan hệ với các trường của Anh, v.v…. Số lượng các đối tác ở đây nhiều một cách phi thực tế. Thật ra, trường hợp của ĐHQG HN không phải duy nhất. Nhiều trường đại học trên thế giới dường như chỉ quan tâm đến việc có được những biên bản ghi nhớ (MoU) hoặc các thỏa thuận hợp tác vốn chẳng có ý nghĩa gì hơn là một tờ giấy ghi lại các quan hệ đó. Những bản thỏa thuận này trông khá “xôm” khi đăng trên website, lại có vẻ là dấu hiệu của sự quốc tế hóa và bằng chứng cho các hợp tác toàn cầu. Nhưng trong thực tế, những mối quan hệ như vậy không có mấy ý nghĩa đối các bên tham gia.
Có lẽ không ai muốn chỉ trích một cách bất công đối với ĐHQG HN, vì nhiều trường đại học ở các nước đang phát triển ra những quyết định kỳ lạ khi lựa chọn đối tác vì họ thiếu thông tin, do họ bị ảnh hưởng bởi những lợi nhuận do các đối tác hứa hẹn, hoặc do tác động của các mối quan hệ cá nhân phức tạp. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, các cá nhân ở cấp lãnh đạo cao nhất hoặc các tổ chức có quan hệ chặt chẽ với chính phủ như ĐHQG thường sẽ nhận được rất nhiều yêu cầu hợp tác từ các trường đại học nước ngoài và thường không sẵn sàng từ chối. Bên cạnh đó, họ hầu như chẳng mất gì khi đồng ý thiết lập quan hệ.
Nhưng ở đây có những bài học cần chú ý. Bài học đầu tiên là các trường rất dễ bị dính vào những mối quan hệ không cân xứng. Những mối quan hệ này có thể gây tổn hại cho danh tiếng của trường và, quan trọng hơn, gây tổn hại cho sinh viên và giảng viên khi họ bị dính líu với những đối tác có vị trí hoặc danh tiếng thấp hơn ở trong nước cũng như trên thế giới. Có quá nhiều mối quan hệ quốc tế như thế có thể tạo ra những vấn đề cho việc đảm bảo chất lượng và quản lý cũng như bảo vệ danh tiếng. Và một trường đại học với quá nhiều đối tác có thể bị xem là vô trách nhiệm hoặc ít nhất là không biết chọn lọc.
May mắn thay, những vấn đề trên có thể được giải quyết một cách dễ dàng. Yếu tố quan trọng nhất là có được một hoặc hai nhà quản lý hiểu rõ về bức tranh giáo dục đại học thế giới. Bỏ thì giờ nghiên cứu và khám phá những tác động của các mối quan hệ cũng là một việc quan trọng. Bên cạnh đó, phải có một chiến lược giáo dục quốc tế rành mạch, tương tự như một chính sách ngoại giao của nhà trường, từ đó vạch ra những chiến lược và kế hoạch cụ thể, cung cấp một lộ trình cho các liên kết quốc tế. Đối với các nước đang phát triển, yếu tố quan trọng nhất có lẽ là sự cam kết phục vụ lợi ích cao nhất của nhà trường và của quốc gia, hơn là đồng ý với mọi lời mời gọi hợp tác từ bên ngoài.
-------------
Nguồn: http://www.insidehighered.com/blogs/the_world_view/the_company_we_keep_a_cautionary_tale
Thursday, July 15, 2010
TQ: "Chiến lược quốc gia về giáo dục đại học cần điều chỉnh" - và những suy nghĩ vụn
Đó là tựa của một mẩu tin đã đăng trên Trung Hoa Nhật báo (tiếng Anh - China Daily) cách đây hơn một tháng rồi. Nó ở đây.
Phải nói thêm cho rõ: nguồn tin, và nội dung tin, thì là của China Daily, nhưng cái tựa mà tôi dịch ở đây là lấy từ People Forum (Diễn đàn nhân dân), ở đây. Từ mẩu tin đó, tôi mới lần ra cái tin từ China Daily, mà tôi đã đưa link ở trên. Còn tựa của China Daily là "Tweak strategy". Tạm dịch là "Chỉnh tinh chiến lược" (chỉnh tinh, hay tinh chỉnh, là dịch từ fine-tune của tiếng Anh, có nghĩa là thay đổi nhỏ cho phù hợp. Tweak là một từ khó dịch vì nó là một slang, phong cách hơi 'bất kính', không trang trọng).
Tin này thật ra cũng bình thường, không có gì "nóng" hoặc "thời sự" cả. Chỉ là do nó có liên quan ít nhiều đến việc tuyển sinh và cơ hội việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, nên tôi đã cho dịch ra để làm tư liệu mà thôi.
Vì công việc của tôi hiện nay - đánh giá chất lượng giáo dục đại học (nghe to tát quá, đúng không, thật ra là một việc rất khó, và tôi cũng chỉ là người tổ chức công việc, còn sự đánh giá đó là do các chuyên gia ở khắp nơi trong và ngoài nước cùng tham gia thực hiện) - đòi hỏi tôi phải đọc và ngẫm nghĩ, học hỏi từ các nền giáo dục khác, để may ra tìm ra được ít nhiều kinh nghiệm có thể áp dụng cho mình.
Và điều tôi quan tâm trong mẩu tin mà tôi đang giới thiệu là ở đây: TQ đang bắt đầu đặt câu hỏi cho mình về bước kế tiếp của việc mở rộng giáo dục đại học, tăng tỷ lệ người đi học đại học trên dân số - tức phát triển về số lượng. Học xong rồi, tốt nghiệp rồi, thì các sinh viên này có tìm được việc làm hay không? Ừ nhỉ!
Một câu hỏi rất ... hay! Nó cho thấy sự nguy hiểm của việc phát triển xã hội theo lối tư duy áp đặt từ trên xuống. Kế hoạch năm năm, mười năm, chi tiết đến từng con số. Thôi, thì làm kế hoạch phải cụ thể, chi tiết. Thế cũng được. Sợ nhất là sau khi kế hoạch được ban hành rồi thì lại dùng ý chí chính trị để ép cho thực tế phải chạy theo ý mình. Duy ý chí.
Đã lấy ý chí chính trị, và lôi cả hệ thống chính trị vào để buộc thực hiện các chỉ tiêu đó, thì các chỉ tiêu đó sẽ đạt được. Nhưng như thế thì các mục tiêu trở thành những mục đích tự thân, làm để mà làm, để thể hiện quyết tâm cao, để chứng minh kế hoạch là đúng, lãnh đạo là sáng suốt.
Rồi sau một thời gian, thì bỗng ớ ra: Đạt được các chỉ tiêu đó, rồi sao nữa???
Tôi bỗng nhớ câu ca dao "tân thời" của VN (không nhớ chính xác, chỉ mài mại một đoạn)
Đi nhanh ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi sẽ đi đâu?
Đi đâu không biết hàng đầu cứ lên!
PS: Tôi sẽ đăng bản dịch mẩu tin đó lên blog này trong entry sau. Vì đã dịch, nên muốn chia sẻ vậy thôi. Nhằm phục vụ thông tin đến các bạn có quan tâm ủng hộ blog này mà! ;-)
Phải nói thêm cho rõ: nguồn tin, và nội dung tin, thì là của China Daily, nhưng cái tựa mà tôi dịch ở đây là lấy từ People Forum (Diễn đàn nhân dân), ở đây. Từ mẩu tin đó, tôi mới lần ra cái tin từ China Daily, mà tôi đã đưa link ở trên. Còn tựa của China Daily là "Tweak strategy". Tạm dịch là "Chỉnh tinh chiến lược" (chỉnh tinh, hay tinh chỉnh, là dịch từ fine-tune của tiếng Anh, có nghĩa là thay đổi nhỏ cho phù hợp. Tweak là một từ khó dịch vì nó là một slang, phong cách hơi 'bất kính', không trang trọng).
Tin này thật ra cũng bình thường, không có gì "nóng" hoặc "thời sự" cả. Chỉ là do nó có liên quan ít nhiều đến việc tuyển sinh và cơ hội việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, nên tôi đã cho dịch ra để làm tư liệu mà thôi.
Vì công việc của tôi hiện nay - đánh giá chất lượng giáo dục đại học (nghe to tát quá, đúng không, thật ra là một việc rất khó, và tôi cũng chỉ là người tổ chức công việc, còn sự đánh giá đó là do các chuyên gia ở khắp nơi trong và ngoài nước cùng tham gia thực hiện) - đòi hỏi tôi phải đọc và ngẫm nghĩ, học hỏi từ các nền giáo dục khác, để may ra tìm ra được ít nhiều kinh nghiệm có thể áp dụng cho mình.
Và điều tôi quan tâm trong mẩu tin mà tôi đang giới thiệu là ở đây: TQ đang bắt đầu đặt câu hỏi cho mình về bước kế tiếp của việc mở rộng giáo dục đại học, tăng tỷ lệ người đi học đại học trên dân số - tức phát triển về số lượng. Học xong rồi, tốt nghiệp rồi, thì các sinh viên này có tìm được việc làm hay không? Ừ nhỉ!
Một câu hỏi rất ... hay! Nó cho thấy sự nguy hiểm của việc phát triển xã hội theo lối tư duy áp đặt từ trên xuống. Kế hoạch năm năm, mười năm, chi tiết đến từng con số. Thôi, thì làm kế hoạch phải cụ thể, chi tiết. Thế cũng được. Sợ nhất là sau khi kế hoạch được ban hành rồi thì lại dùng ý chí chính trị để ép cho thực tế phải chạy theo ý mình. Duy ý chí.
Đã lấy ý chí chính trị, và lôi cả hệ thống chính trị vào để buộc thực hiện các chỉ tiêu đó, thì các chỉ tiêu đó sẽ đạt được. Nhưng như thế thì các mục tiêu trở thành những mục đích tự thân, làm để mà làm, để thể hiện quyết tâm cao, để chứng minh kế hoạch là đúng, lãnh đạo là sáng suốt.
Rồi sau một thời gian, thì bỗng ớ ra: Đạt được các chỉ tiêu đó, rồi sao nữa???
Tôi bỗng nhớ câu ca dao "tân thời" của VN (không nhớ chính xác, chỉ mài mại một đoạn)
Đi nhanh ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi sẽ đi đâu?
Đi đâu không biết hàng đầu cứ lên!
PS: Tôi sẽ đăng bản dịch mẩu tin đó lên blog này trong entry sau. Vì đã dịch, nên muốn chia sẻ vậy thôi. Nhằm phục vụ thông tin đến các bạn có quan tâm ủng hộ blog này mà! ;-)
Nhãn:
china,
hied reform,
world hied news
Wednesday, May 26, 2010
Đại học đỉnh cao liệu có phát triển được ở Trung Quốc?
Câu hỏi này không phải của tôi, mà là của tác giả của bài viết cùng tên (không phải bằng tiếng Việt, tất nhiên; có lẽ bài gốc thoạt tiên được viết bằng tiếng Trung, nhưng tôi chỉ đọc được bản tiếng Anh). Bài viết ấy được đăng trên tờ Toàn cầu thời báo (Global Times) của Trung Quốc vào ngày 14/10/2009, ở đây.
Một bài viết ngắn, chỉ nhằm mục đích đặt câu hỏi chứ không cố gắng đưa ra câu trả lời nào - hẳn là học tập Đỗ Ngọc Bích với câu nói nổi tiếng (!!!), đại khái (tôi không nhớ nguyên văn) là chỉ có câu trả lời ngu xuẩn chứ không có câu hỏi nào ngu xuẩn!
Tuy nhiên, rất nhiều khi "hỏi tức là đã tự trả lời". Và theo tôi thì tác giả của bài viết này, chỉ qua một bài viết ngắn với một số quan sát chọn lọc và những nhận định cá nhân, đã đưa ra những phác họa rõ nét cho thấy tại sao giáo dục đại học Trung Quốc dường như đã "chạm nóc", nếu không có những thay đổi lớn về quản lý trong thời gian tới.
Bài báo viết gì? Về việc các trường ĐH hàng đầu của TQ, trong đó có các trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa, đã ký một thỏa ước đồng ý cùng nhau tìm cách xây dựng nhóm Ivy League - tạm dịch là nhóm ĐH đỉnh cao - của TQ, theo kiểu nhóm trường ĐH đỉnh cao của Mỹ (tìm hiểu thêm về Ivy League ở đây).
Theo thỏa ước này, nhóm Ivy League của TQ sẽ công nhận tín chỉ của nhau và cho phép sinh viên được lựa chọn địa điểm học trên bất kỳ cơ sở nào của các trường trong nhóm, nhằm tạo điều kiện chia sẻ nguồn lực giữa các trường.
Tốt quá, phải không? Nhưng tác giả của bài báo lại không nghĩ như vậy. Tại sao ư? Thiếu gì lý do, đây này:
1. Hệ thống đào tạo theo tín chỉ của TQ chưa hoàn chỉnh, và số môn học bắt buộc lên đến 80% tổng số môn, trong khi sinh viên các nước Anglo-Saxon chỉ phải học số môn bắt buộc là 40% tổng chương trình.
Với một hệ thống tín chỉ "nửa mùa" như vậy, tác giả đặt câu hỏi (rất chí lý) rằng "tự do chọn môn học ở ngay cơ sở đào tạo của mình còn chẳng được thì lấy đâu mà lựa chọn tự do giữa các trường?"
2. Các trường đại học của TQ, kể cả Ivy League, vẫn còn bị bó buộc quá thiếu khâu và thiếu tính tự chủ, ngay từ khâu đầu tiên là khâu tuyển sinh. Theo tác giả, nếu muốn có sự phân tầng thì các trường Ivy League trước hết phải có hệ thống tuyển sinh của riêng mình, nhằm lựa chọn được các tân sinh viên phù hợp với các yêu cầu riêng do mình đặt ra. Điều này, theo tác giả, có thể sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới tuyển sinh đại học tại TQ: các trường sẽ được trao quyền chủ động nhiều hơn về mặt chuyên môn.
3. Các trường Ivy League của TQ quá giống nhau về nguồn lực và kinh phí, nên sự chia sẻ, trao đổi giữa các trường sẽ không có tác dụng gì nhiều. Theo tác giả, sự chia sẻ và trao đổi này nên diễn ra giữa các trường Ivy League của TQ với các trường khác, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, đồng thời nâng cao chất lượng của giáo dục đại học TQ lên nói chung.
Một nhận định rất thú vị, và cũng là kết luận của tác giả:
Vậy đấy. Đọc lên, sao cứ thấy giống giống giáo dục đại học VN? Vì cách đây mấy ngày, khi đang ở Sing, tôi cũng đọc được tin về một hội thảo gần đây về đào tạo theo tín chỉ. Ví dụ như ở đây. Và thấy, hình như ở VN đào tạo theo tín chỉ nói đi nói lại mãi mà vẫn chỉ có vậy. Thành tựu nửa mùa.
Nguyên nhân chính, suy cho cùng, phải chăng là nền giáo dục của chúng ta (cũng như của TQ) chưa lấy người học làm trung tâm. Cũng như quản lý nhà nước dường như chưa lấy người dân làm gốc vậy.
Nếu thế, chẳng trách nào giáo dục của ta cứ đổi mới đủ thứ, hết đổi mới chương trình rồi đến giáo trình rồi lại đến cách tổ chức đào tạo và giờ đây là đổi mới quản lý, mà cuối cùng cũng chẳng thấy đổi thay được mấy tí (giống y như nhận định về giáo dục TQ trong bài viết trên).
Và câu hỏi cho giáo dục đại học TQ có lẽ cũng là câu hỏi dành cho ta, nhưng có điều chỉnh một chút: một nền giáo dục đại học tử tế liệu có phát triển nổi trên đất Việt?
Có ai dám trả lời câu hỏi này không?
Một bài viết ngắn, chỉ nhằm mục đích đặt câu hỏi chứ không cố gắng đưa ra câu trả lời nào - hẳn là học tập Đỗ Ngọc Bích với câu nói nổi tiếng (!!!), đại khái (tôi không nhớ nguyên văn) là chỉ có câu trả lời ngu xuẩn chứ không có câu hỏi nào ngu xuẩn!
Tuy nhiên, rất nhiều khi "hỏi tức là đã tự trả lời". Và theo tôi thì tác giả của bài viết này, chỉ qua một bài viết ngắn với một số quan sát chọn lọc và những nhận định cá nhân, đã đưa ra những phác họa rõ nét cho thấy tại sao giáo dục đại học Trung Quốc dường như đã "chạm nóc", nếu không có những thay đổi lớn về quản lý trong thời gian tới.
Bài báo viết gì? Về việc các trường ĐH hàng đầu của TQ, trong đó có các trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa, đã ký một thỏa ước đồng ý cùng nhau tìm cách xây dựng nhóm Ivy League - tạm dịch là nhóm ĐH đỉnh cao - của TQ, theo kiểu nhóm trường ĐH đỉnh cao của Mỹ (tìm hiểu thêm về Ivy League ở đây).
Theo thỏa ước này, nhóm Ivy League của TQ sẽ công nhận tín chỉ của nhau và cho phép sinh viên được lựa chọn địa điểm học trên bất kỳ cơ sở nào của các trường trong nhóm, nhằm tạo điều kiện chia sẻ nguồn lực giữa các trường.
Tốt quá, phải không? Nhưng tác giả của bài báo lại không nghĩ như vậy. Tại sao ư? Thiếu gì lý do, đây này:
1. Hệ thống đào tạo theo tín chỉ của TQ chưa hoàn chỉnh, và số môn học bắt buộc lên đến 80% tổng số môn, trong khi sinh viên các nước Anglo-Saxon chỉ phải học số môn bắt buộc là 40% tổng chương trình.
Với một hệ thống tín chỉ "nửa mùa" như vậy, tác giả đặt câu hỏi (rất chí lý) rằng "tự do chọn môn học ở ngay cơ sở đào tạo của mình còn chẳng được thì lấy đâu mà lựa chọn tự do giữa các trường?"
2. Các trường đại học của TQ, kể cả Ivy League, vẫn còn bị bó buộc quá thiếu khâu và thiếu tính tự chủ, ngay từ khâu đầu tiên là khâu tuyển sinh. Theo tác giả, nếu muốn có sự phân tầng thì các trường Ivy League trước hết phải có hệ thống tuyển sinh của riêng mình, nhằm lựa chọn được các tân sinh viên phù hợp với các yêu cầu riêng do mình đặt ra. Điều này, theo tác giả, có thể sẽ có ảnh hưởng tích cực đến việc đổi mới tuyển sinh đại học tại TQ: các trường sẽ được trao quyền chủ động nhiều hơn về mặt chuyên môn.
3. Các trường Ivy League của TQ quá giống nhau về nguồn lực và kinh phí, nên sự chia sẻ, trao đổi giữa các trường sẽ không có tác dụng gì nhiều. Theo tác giả, sự chia sẻ và trao đổi này nên diễn ra giữa các trường Ivy League của TQ với các trường khác, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, đồng thời nâng cao chất lượng của giáo dục đại học TQ lên nói chung.
Một nhận định rất thú vị, và cũng là kết luận của tác giả:
It is a good idea to encourage communication and exchange between universities. But it will end in vain if not aimed at the benefit of the students.
This is why a lot of agreements have been signed in the recent years, but not many changes have happened in higher education.
Trao đổi ý tưởng và kinh nghiệm giữa các trường ĐH là rất tốt. Nhưng nếu việc này không nhắm đến lợi ích của người học thì cũng bằng thừa.
Đó là lý do tại sao các thỏa ước giữa các trường được ký rất nhiều, nhưng rồi cũng chẳng thấy thay đổi được mấy tí.
Vậy đấy. Đọc lên, sao cứ thấy giống giống giáo dục đại học VN? Vì cách đây mấy ngày, khi đang ở Sing, tôi cũng đọc được tin về một hội thảo gần đây về đào tạo theo tín chỉ. Ví dụ như ở đây. Và thấy, hình như ở VN đào tạo theo tín chỉ nói đi nói lại mãi mà vẫn chỉ có vậy. Thành tựu nửa mùa.
Nguyên nhân chính, suy cho cùng, phải chăng là nền giáo dục của chúng ta (cũng như của TQ) chưa lấy người học làm trung tâm. Cũng như quản lý nhà nước dường như chưa lấy người dân làm gốc vậy.
Nếu thế, chẳng trách nào giáo dục của ta cứ đổi mới đủ thứ, hết đổi mới chương trình rồi đến giáo trình rồi lại đến cách tổ chức đào tạo và giờ đây là đổi mới quản lý, mà cuối cùng cũng chẳng thấy đổi thay được mấy tí (giống y như nhận định về giáo dục TQ trong bài viết trên).
Và câu hỏi cho giáo dục đại học TQ có lẽ cũng là câu hỏi dành cho ta, nhưng có điều chỉnh một chút: một nền giáo dục đại học tử tế liệu có phát triển nổi trên đất Việt?
Có ai dám trả lời câu hỏi này không?
Nhãn:
china,
VN's hied reform,
world hied news
Sunday, May 16, 2010
Tin giáo dục Mã Lai: "Giờ đây ai cũng có thể học đại học"
Tin đó ở đây.
Tóm tắt: mọi rào cản đối với việc học ở bậc đại học đã được tháo gỡ. Những người chưa có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, hoặc không có thời gian, hoặc thậm chí không có đủ tiền, giờ đây đều có thể có cơ hội học đại học tại trường đại học mở của nước này, Open University of Malaya.
Chỉ cần tốt nghiệp trung học cơ sở, có kinh nghiệm làm việc, có những kỹ năng và kiến thức tối thiểu để tham gia học, học theo những thời gian linh động theo nhiều phương thức giảng dạy khác nhau (từ xa, trực tiếp lên lớp, hàm thụ vv), và thậm chí đóng tiền trả góp nhiều lần. Còn có lý do gì để ngăn cản một người không học đại học nữa chăng?
Cái lợi của một đất nước với tỷ lệ dân số tốt nghiệp đại học cao chắc không ai chối cãi. Đó là lợi thế của mô hình Mỹ với mô hình giáo dục đại học đại chúng và gắn liền với nhu cầu xã hội ngay từ triết lý và từ xuất phát điểm. Và những nước nào muốn phát triển đều học tập mô hình này theo những cách khác nhau.
Có thể nói, đại học mở là một sáng kiến của nước Anh với trường đại học rất nổi tiếng là The Open University, website ở đây. Địa chỉ link: http://www.open.ac.uk/. Sáng kiến này nhằm đáp ứng nhu cầu đại chúng hóa và phân tầng trong giáo dục đại học, tạo ra một mô hình đại học mới bổ sung cho mô hình đại học tinh hoa. Rõ ràng, để góp phần phát triển kinh tế, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, thì không phải trường đại học nào cũng cần trở thành Oxford hay Cambridge.
Hiện tượng này sau đó đã được một số nước khác "nhập khẩu", ví dụ như Thái Lan với một trường đại học mở với số lượng sinh viên rất ấn tượng là một vài trăm ngàn gì đó, trong đó có cả những người đang bị phạt tù (học hàm thụ) mà tôi đã có dịp đến thăm vào năm 1993.
Ở VN, trước đây mô hình đại học mở theo kiểu Anh hoặc Thái Lan cũng đã được cổ súy. Tôi cũng rất may mắn có tham gia giảng dạy "đại học mở" thời đầu tiên của nó, đầu thập niên 1990. Tiếc thay, giờ đây "đại học mở" của VN chỉ còn là một cái tên, nó chẳng còn chút gì mở nữa! Kỳ thi ba chung, và kiểu quản lý "gà công nghiệp" của bộ giáo dục của VN đã biến 400 trường đại học của VN thành những trường làng nhàng, không bản sắc, không tinh hoa mà cũng chẳng đại chúng!
Chúng ta đang muốn đổi mới giáo dục. Vậy ta đổi mới như thế nào, nếu không chịu nhìn ra xung quanh và học hỏi những kinh nghiệm thành công của những người hàng xóm? Và kinh nghiệm Mã Lai rõ ràng là một kinh nghiệm không tồi. Thử nhìn sự phát triển ổn định của người hàng xóm này thì đủ rõ.
Có ai có suy nghĩ gì về vấn đề này không?
Tóm tắt: mọi rào cản đối với việc học ở bậc đại học đã được tháo gỡ. Những người chưa có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông, hoặc không có thời gian, hoặc thậm chí không có đủ tiền, giờ đây đều có thể có cơ hội học đại học tại trường đại học mở của nước này, Open University of Malaya.
Chỉ cần tốt nghiệp trung học cơ sở, có kinh nghiệm làm việc, có những kỹ năng và kiến thức tối thiểu để tham gia học, học theo những thời gian linh động theo nhiều phương thức giảng dạy khác nhau (từ xa, trực tiếp lên lớp, hàm thụ vv), và thậm chí đóng tiền trả góp nhiều lần. Còn có lý do gì để ngăn cản một người không học đại học nữa chăng?
Cái lợi của một đất nước với tỷ lệ dân số tốt nghiệp đại học cao chắc không ai chối cãi. Đó là lợi thế của mô hình Mỹ với mô hình giáo dục đại học đại chúng và gắn liền với nhu cầu xã hội ngay từ triết lý và từ xuất phát điểm. Và những nước nào muốn phát triển đều học tập mô hình này theo những cách khác nhau.
Có thể nói, đại học mở là một sáng kiến của nước Anh với trường đại học rất nổi tiếng là The Open University, website ở đây. Địa chỉ link: http://www.open.ac.uk/. Sáng kiến này nhằm đáp ứng nhu cầu đại chúng hóa và phân tầng trong giáo dục đại học, tạo ra một mô hình đại học mới bổ sung cho mô hình đại học tinh hoa. Rõ ràng, để góp phần phát triển kinh tế, thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, thì không phải trường đại học nào cũng cần trở thành Oxford hay Cambridge.
Hiện tượng này sau đó đã được một số nước khác "nhập khẩu", ví dụ như Thái Lan với một trường đại học mở với số lượng sinh viên rất ấn tượng là một vài trăm ngàn gì đó, trong đó có cả những người đang bị phạt tù (học hàm thụ) mà tôi đã có dịp đến thăm vào năm 1993.
Ở VN, trước đây mô hình đại học mở theo kiểu Anh hoặc Thái Lan cũng đã được cổ súy. Tôi cũng rất may mắn có tham gia giảng dạy "đại học mở" thời đầu tiên của nó, đầu thập niên 1990. Tiếc thay, giờ đây "đại học mở" của VN chỉ còn là một cái tên, nó chẳng còn chút gì mở nữa! Kỳ thi ba chung, và kiểu quản lý "gà công nghiệp" của bộ giáo dục của VN đã biến 400 trường đại học của VN thành những trường làng nhàng, không bản sắc, không tinh hoa mà cũng chẳng đại chúng!
Chúng ta đang muốn đổi mới giáo dục. Vậy ta đổi mới như thế nào, nếu không chịu nhìn ra xung quanh và học hỏi những kinh nghiệm thành công của những người hàng xóm? Và kinh nghiệm Mã Lai rõ ràng là một kinh nghiệm không tồi. Thử nhìn sự phát triển ổn định của người hàng xóm này thì đủ rõ.
Có ai có suy nghĩ gì về vấn đề này không?
Saturday, April 24, 2010
Trung Quốc: Cần xóa bỏ chính sách ưu tiên trong tuyển sinh
Tin này vừa được đưa trên số mới nhất của tờ báo mạng World Education News & Reviews số 3, tập 23, ngày 23/4/2010, trích theo nguồn của Tân Hoa Xã tháng 3/2010. Có thể đọc bản tiếng Anh của mẩu tin này ở đây.
Theo nguồn tin nói trên, trong một cuộc khảo sát về tuyển sinh đại học, cao đẳng tại Trung Quốc, có đến 80% số người được hỏi cảm thấy cần xóa bỏ chính sách ưu tiên dành cho dân tộc thiểu số và những thí sinh có thành tích trong các cuộc thi đấu thể thao.
Chính sách ưu tiên nói trên được áp dụng trên toàn quốc, nhưng mỗi tỉnh sử dụng một công thức "cộng điểm thưởng" khác nhau, nên đôi khi những thí sinh có thành tích thể thao thuộc loại "bèo" cũng có thể được thêm khá nhiều điểm trong kỳ thi tuyển sinh. Thí sinh thuộc dân tộc thiểu số cũng được hưởng nhiều ưu đãi trong tuyển sinh.
Sự không hài lòng của công chúng về chính sách ưu tiên nói trên bắt nguồn từ những phát hiện gần đây của truyền thông Trung Quốc về những gian lận của các thí sinh khi khai man về nguồn gốc dân tộc thiểu số của mình, hoặc thậm chí đi "mua" các giấy chứng nhận đạt các thành tích các cuộc thi đấu "hạng hai" tại các địa phương.
Và dưới đây là những câu hỏi của tôi nhân sự việc nói trên ở Trung Quốc:
1. Hình như việc gian lận này cũng tồn tại ở VN?
2. Phải chăng sự gian lận này là do ... cơ chế?
Ai biết xin trả lời giùm!
--
Theo nguồn tin nói trên, trong một cuộc khảo sát về tuyển sinh đại học, cao đẳng tại Trung Quốc, có đến 80% số người được hỏi cảm thấy cần xóa bỏ chính sách ưu tiên dành cho dân tộc thiểu số và những thí sinh có thành tích trong các cuộc thi đấu thể thao.
Chính sách ưu tiên nói trên được áp dụng trên toàn quốc, nhưng mỗi tỉnh sử dụng một công thức "cộng điểm thưởng" khác nhau, nên đôi khi những thí sinh có thành tích thể thao thuộc loại "bèo" cũng có thể được thêm khá nhiều điểm trong kỳ thi tuyển sinh. Thí sinh thuộc dân tộc thiểu số cũng được hưởng nhiều ưu đãi trong tuyển sinh.
Sự không hài lòng của công chúng về chính sách ưu tiên nói trên bắt nguồn từ những phát hiện gần đây của truyền thông Trung Quốc về những gian lận của các thí sinh khi khai man về nguồn gốc dân tộc thiểu số của mình, hoặc thậm chí đi "mua" các giấy chứng nhận đạt các thành tích các cuộc thi đấu "hạng hai" tại các địa phương.
Và dưới đây là những câu hỏi của tôi nhân sự việc nói trên ở Trung Quốc:
1. Hình như việc gian lận này cũng tồn tại ở VN?
2. Phải chăng sự gian lận này là do ... cơ chế?
Ai biết xin trả lời giùm!
--
Nhãn:
china,
corruption,
world hied news
Tuesday, March 23, 2010
Đọc: "Nỗi đau giáo dục của người đi xin việc"
Nỗi đau giáo dục này không phải là của Việt Nam, mà là của Trung Quốc. Nhưng vẫn rất đáng đọc, vì dù muốn dù không Trung Quốc cũng là một nước láng giềng có nhiều điểm giống Việt Nam. Vì vậy, nó có nhiều điểm đáng cho Việt Nam học hỏi - học để theo, cũng như học để tránh.
Bài viết về nỗi đau ấy do chính người TQ viết trên trang ChinaDaily bằng tiếng Anh, "Educational pain for job seekers", ở đây. Được đăng từ đầu năm 2010 này, vào ngày 12/1/2010.
Nó bắt đầu bằng những giòng mỉa mai:
Thật ra, sinh viên ra trường không kiếm được việc làm không phải là điều gì mới, mà cũng chẳng phải chỉ xảy ra ở Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay, thiếu hụt nhân công để phục vụ cho đà phát triển kinh tế đang lên là một vấn đề thực sự đáng quan ngại: đất nước này đã không còn lợi thế của dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào như trước đây, vì chính sách mỗi "gia đình chỉ được sinh một con" mà chính phủ TQ đã cho áp dụng nhiều năm nay đã phát huy tác dụng. Trong khi đó,
Sinh viên tốt nghiệp của TQ có chất lượng thấp vậy sao? Chẳng phải TQ có một nền giáo dục đại học khá phát triển, hiện đã có một số nằm trong top 500 của thế giới trong bảng xếp hạng khắt khe do chính TQ lập ra hay sao?
Sự thực là so với đất nước trên một tỷ dân kia, số các trường "hàng đầu thế giới" mà ta có thể đếm trên đầu ngón tay như ĐH Bắc Kinh, Thanh Hoa, Giao thông Thượng Hải, Phúc Đán vv chỉ như muối bỏ bể, là ngoại lệ hơn là quy luật. Còn tình trạng chung của giáo dục đại học TQ thì như thế này đây:
Tình trạng này rất đáng báo động, vì nó đang cản trở sự phát triển của TQ. Trong khi TQ đang tự hào về vị thế đang lên của mình trên trường quốc tế, việc để xảy ra tình trạng trên trong giáo dục đại học thực sự là một điều không sao hiểu nổi!
Phần trích dẫn được in nghiêng đậm ở ngay trên đây là quá đủ để kết thúc entry này. Và rất đáng làm một bài học cho Việt Nam. Tôi rất mong bài viết mà tôi giới thiệu trên đây được những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục quan tâm. Cùng tất cả những ai tha thiết với sự phát triển của đất nước này.
Một ngày mới vất vả, vật vã trong cơn đau phát triển của giáo dục đại học Việt Nam đang đến ...
Bài viết về nỗi đau ấy do chính người TQ viết trên trang ChinaDaily bằng tiếng Anh, "Educational pain for job seekers", ở đây. Được đăng từ đầu năm 2010 này, vào ngày 12/1/2010.
Nó bắt đầu bằng những giòng mỉa mai:
Nothing can better illustrate the failure of education in this country than the contrast between millions of college graduates finding it hard to get a proper job every year and the dearth of workers in the more industrialized regions.
Không có gì minh họa cho sự thất bại về giáo dục của đất nước này [tức Trung Quốc] cho bằng sự tương phản giữa một bên là hàng triệu sinh viên tốt nghiệp nhưng không kiếm được việc làm và bên kia là sự thiếu hụt nhân công trong các khu vực có trình độ công nghiệp hóa cao.
Thật ra, sinh viên ra trường không kiếm được việc làm không phải là điều gì mới, mà cũng chẳng phải chỉ xảy ra ở Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay, thiếu hụt nhân công để phục vụ cho đà phát triển kinh tế đang lên là một vấn đề thực sự đáng quan ngại: đất nước này đã không còn lợi thế của dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào như trước đây, vì chính sách mỗi "gia đình chỉ được sinh một con" mà chính phủ TQ đã cho áp dụng nhiều năm nay đã phát huy tác dụng. Trong khi đó,
An awkward reality is that only few, if any, of the new college graduates could really fill the vacancies because the trainings they have received are entirely different from the demands of the jobs. Nor will Chinese cities have enough manpower if they pursue a development model other than export-oriented manufacturing.
Thật oái oăm là chỉ có rất ít - nếu có - những sinh viên mới tốt nghiệp có thể được nhận vào những chỗ làm ấy vì những gì họ học hoàn toàn không đáp ứng được đòi hỏi của công việc. Và các thành phố TQ cũng sẽ chẳng thể có đủ nhân lực để theo đuổi một mô hình phát triển nào khác hơn là cái mô hình dựa hoàn toàn vào xuất khẩu như hiên nay.
Sinh viên tốt nghiệp của TQ có chất lượng thấp vậy sao? Chẳng phải TQ có một nền giáo dục đại học khá phát triển, hiện đã có một số nằm trong top 500 của thế giới trong bảng xếp hạng khắt khe do chính TQ lập ra hay sao?
Sự thực là so với đất nước trên một tỷ dân kia, số các trường "hàng đầu thế giới" mà ta có thể đếm trên đầu ngón tay như ĐH Bắc Kinh, Thanh Hoa, Giao thông Thượng Hải, Phúc Đán vv chỉ như muối bỏ bể, là ngoại lệ hơn là quy luật. Còn tình trạng chung của giáo dục đại học TQ thì như thế này đây:
Chinese colleges are being corrupted by a combination of a stubborn emphasis on the old bookish knowledge and the recent running-out-of-control experiment with self-financing. In fact, self-financing by colleges has become an exercise in greed as they keep collecting fees irrespective of the quality of education they impart.
Các trường đại học TQ đang bị bại hoại vì tác động kép của một bên là sự ngoan cố nhấn mạnh kiến thức sách vở và bên kia là việc thử nghiệm "tự chủ tài chính" mà thiếu kiểm soát. Thực sự, tự chủ tài chính đã trở thành việc buông lỏng cho lòng tham của các trường vì có những trường chỉ biết thu học phí mà không cần quan tâm đến chất lượng giáo dục mà họ cung cấp cho sinh viên.
Tình trạng này rất đáng báo động, vì nó đang cản trở sự phát triển của TQ. Trong khi TQ đang tự hào về vị thế đang lên của mình trên trường quốc tế, việc để xảy ra tình trạng trên trong giáo dục đại học thực sự là một điều không sao hiểu nổi!
It is hard to believe that a country could take education so casually when there are no longer as many young people as before and view its opportunities only in terms of immediate financial gains. Besides, vocational education faces a double threat: frequent fluctuation in the business cycle and that of a flooding of cheap college credentials.
It is surprising in a country famed for its reform and opening up, therefore, to see little reform and so much degradation in its education system. When colleges are reduced to money-making machines, they cannot help a society create enough workers, thinkers and leaders.
Thật khó lòng hiểu nổi tại sao một quốc gia lại có thể xem nhẹ việc giáo dục đến thế khi họ không còn nhiều người trẻ như trước đây, và quan niệm về cơ hội của đất nước mình chỉ qua những lợi ích kinh tế trước mắt. Bên cạnh đó, giáo dục nghề nghiệp của TQ cũng đang chịu một mối đe dọa kép: một bên là sự mất ổn định thường xuyên trong quy trình hoạt động, bên kia là sự tràn ngập những bằng cấp đại học không có giá trị.
Ngạc nhiên thay cho một đất nước tự hào về sự đổi mới và cởi mở, mà lại có quá ít cải cách và quá nhiều sự tha hóa trong hệ thống giáo dục của mình. Khi các trường đại học chỉ còn là các cỗ máy kiếm tiền, chúng sẽ không còn khả năng tạo ra đủ các công nhân, nhà tư tưởng, và các lãnh đạo để phục vụ xã hội nữa.
Phần trích dẫn được in nghiêng đậm ở ngay trên đây là quá đủ để kết thúc entry này. Và rất đáng làm một bài học cho Việt Nam. Tôi rất mong bài viết mà tôi giới thiệu trên đây được những người có trách nhiệm trong ngành giáo dục quan tâm. Cùng tất cả những ai tha thiết với sự phát triển của đất nước này.
Một ngày mới vất vả, vật vã trong cơn đau phát triển của giáo dục đại học Việt Nam đang đến ...
Tài liệu cần lưu: The Story of Academic Rankings
Giới thiệu bài viết và tác giả
Nian Cai Liu hiện là Trưởng Khoa Giáo dục (SĐH) tại Trường ĐH Giao thông Thượng Hải, và là tác giả của hệ thống xếp hạng đại học quốc tế ARWU (academic ranking of world universities) được xem là khách quan và đáng tin cậy nhất trên thế giới hiện nay. Bài viết dưới đây của ông thuật lại câu chuyện về việc xây dựng hệ thống xếp hạng này, có liên quan đến ước vọng đưa một số trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế của các nhà lãnh đạo TQ.
Xin đọc toàn văn bài viết bằng tiếng Anh dưới đây. Phần in đậm, in nghiêng hoặc in nghiêng đậm là do tôi thêm vào để nhấn mạnh.
--
The Story of Academic Rankings
Nian Cai Liu
Nian Cai Liu is professor and Dean of the Graduate School of Education, Shanghai Jiao Tong University, Shanghai, China. E-mail: ncliu@sjtu.edu.cn.
Nguồn: http://www.bc.edu/bc_org/avp/soe/cihe/newsletter/Number54/p2_Liu.htm
--------------------------------------------------------------
Building world-class universities has been the dream of generations of Chinese. At the 100th anniversary of Peking University in May 1998, the then president of China declared that the country should have several world-class universities—resulting in the 985 Project, which is especially for building world-class universities in China.
In 1998, Shanghai Jiao Tong University was selected by the Chinese government to be among the first group of nine universities in the 985 Project. At that time, many top Chinese universities drew up their strategic goals as world-class universities, and most of them set up a timetable. Shanghai Jiao Tong University was no exception. As a professor and vice-dean of the School of Chemistry and Chemical Engineering of the university, I became involved in the strategic planning process of building Shanghai Jiao Tong University into a world-class university.
During the process, I asked myself many questions. What is the definition of a world-class university? How many world-class universities should there be globally? What are the positions of top Chinese universities in the world higher education system? How can top Chinese universities reduce their gap with world-class universities? In order to answer these questions, I started to benchmark top Chinese universities with world-class universities and eventually to rank the world universities.
The Global Position of Chinese Universities
From 1999 to 2001, with Dr. Ying Cheng and two other colleagues, I worked on the project of benchmarking top Chinese universities with four groups of US universities, from the very top to ordinary research universities. The main conclusions include that top Chinese universities were estimated to be in the position of 200 to 300 in the world. The results of these comparisons and analyses were used in the strategic planning process of Shanghai Jiao Tong University. Eventually, a consultation report was written and provided to the Ministry of Education of China.
The publication of the report resulted in numerous positive comments, many of which involved the possibility of making a real ranking of world universities. During the time, many foreign friends, who visited us for other purposes, learned about our study and encouraged us to do world rankings. They reminded us that not only in China but also universities, governments, and other stakeholders in the rest of the world are interested in the ranking of world universities. Therefore, I decided to undertake this project, and with three colleagues spent another two years until the Academic Ranking of World Universities was completed in early 2003.
In June 2003, the ranking was published on our Web site (http://www.arwu.org). Although about 1,200 institutions from all over the world have actually been ranked, only the lists of the top 500 institutions have been published on the Web. Considering the significance of differences in the total scale, the ranking results include groups of 50 institutions in the range of 100 to 200 and groups of 100 institutions in the range of 200 to 500.
Ranking by Broad Subject Fields
Ever since its publication, the ranking has attracted attention from all over the world. Numerous requests have been received, asking us to provide a ranking of world universities by broad subject fields or by schools and colleges. We have tried to respond to these requests and the results were published on our Web site in February 2007. The five broad subject fields include the natural sciences and mathematics, engineering/technology and computer sciences, life and agriculture sciences, clinical medicine and pharmacy, and the social sciences.
Arts and humanities were not ranked because of the technical difficulties in finding internationally comparable indicators with reliable data. Psychology and other cross-disciplinary fields were not included in the ranking because of their interdisciplinary characteristics. Two new indicators were introduced: first, the percentage of articles published in the top 20 percent journals of each broad subject field and, second, the research expenditures (for engineering ranking). The list of top 100 universities in each broad subject field was published.
Ongoing Efforts to Diversify the Ranking
The Academic Ranking of World Universities sought to rank research universities in the world by their academic or research performance based on internationally comparable third-party data that everyone could check. The project was carried out for our academic interests, with potential impact on the strategic planning of Chinese universities.
Methodological problems involve the balance of research with teaching and service in ranking indicators and weights—inclusion of non-English publications, the selection of awards, and the experience of award winners. Technical problems exist in the definition and name given to institutions, data searching and cleanup of databases, and attribution of publications to institutions and broad subject fields. We have been working hard to study all the above-mentioned problems and to improve our ranking.
In addition to the broad subject field ranking, we are surveying the possibilities of providing more diversified ranking lists, particularly rankings based on different types of universities with different functions, disciplinary characteristics, history, size, and budget, as well as other topics. Furthermore, we have been doing theoretical research on ranking in general, seeking to contribute to the understanding of ranking. We have also been actively participating in international societies related to ranking such as the International Ranking Expert Group—International Observatory on Academic Ranking and Excellence (http://www.ireg-observatory.org).
Conclusion
Any ranking is controversial, and no ranking is absolutely objective. Nevertheless, university rankings have become popular in almost all major countries in the world. Whether universities and other stakeholders agree, ranking systems clearly are here to stay. The key issue then becomes how to improve ranking systems and how to use their results properly. Ranking methodologies should always be examined carefully before looking at any ranking lists, and ranking results should be used with caution.
Authors note: For additional information about the Shanghai higher education rankings, see http://www.arwu.org.
--
Tin, bài có liên quan:
1. Ranking confession, ở đây.
Nian Cai Liu hiện là Trưởng Khoa Giáo dục (SĐH) tại Trường ĐH Giao thông Thượng Hải, và là tác giả của hệ thống xếp hạng đại học quốc tế ARWU (academic ranking of world universities) được xem là khách quan và đáng tin cậy nhất trên thế giới hiện nay. Bài viết dưới đây của ông thuật lại câu chuyện về việc xây dựng hệ thống xếp hạng này, có liên quan đến ước vọng đưa một số trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế của các nhà lãnh đạo TQ.
Xin đọc toàn văn bài viết bằng tiếng Anh dưới đây. Phần in đậm, in nghiêng hoặc in nghiêng đậm là do tôi thêm vào để nhấn mạnh.
--
The Story of Academic Rankings
Nian Cai Liu
Nian Cai Liu is professor and Dean of the Graduate School of Education, Shanghai Jiao Tong University, Shanghai, China. E-mail: ncliu@sjtu.edu.cn.
Nguồn: http://www.bc.edu/bc_org/avp/soe/cihe/newsletter/Number54/p2_Liu.htm
--------------------------------------------------------------
Building world-class universities has been the dream of generations of Chinese. At the 100th anniversary of Peking University in May 1998, the then president of China declared that the country should have several world-class universities—resulting in the 985 Project, which is especially for building world-class universities in China.
In 1998, Shanghai Jiao Tong University was selected by the Chinese government to be among the first group of nine universities in the 985 Project. At that time, many top Chinese universities drew up their strategic goals as world-class universities, and most of them set up a timetable. Shanghai Jiao Tong University was no exception. As a professor and vice-dean of the School of Chemistry and Chemical Engineering of the university, I became involved in the strategic planning process of building Shanghai Jiao Tong University into a world-class university.
During the process, I asked myself many questions. What is the definition of a world-class university? How many world-class universities should there be globally? What are the positions of top Chinese universities in the world higher education system? How can top Chinese universities reduce their gap with world-class universities? In order to answer these questions, I started to benchmark top Chinese universities with world-class universities and eventually to rank the world universities.
The Global Position of Chinese Universities
From 1999 to 2001, with Dr. Ying Cheng and two other colleagues, I worked on the project of benchmarking top Chinese universities with four groups of US universities, from the very top to ordinary research universities. The main conclusions include that top Chinese universities were estimated to be in the position of 200 to 300 in the world. The results of these comparisons and analyses were used in the strategic planning process of Shanghai Jiao Tong University. Eventually, a consultation report was written and provided to the Ministry of Education of China.
The publication of the report resulted in numerous positive comments, many of which involved the possibility of making a real ranking of world universities. During the time, many foreign friends, who visited us for other purposes, learned about our study and encouraged us to do world rankings. They reminded us that not only in China but also universities, governments, and other stakeholders in the rest of the world are interested in the ranking of world universities. Therefore, I decided to undertake this project, and with three colleagues spent another two years until the Academic Ranking of World Universities was completed in early 2003.
In June 2003, the ranking was published on our Web site (http://www.arwu.org). Although about 1,200 institutions from all over the world have actually been ranked, only the lists of the top 500 institutions have been published on the Web. Considering the significance of differences in the total scale, the ranking results include groups of 50 institutions in the range of 100 to 200 and groups of 100 institutions in the range of 200 to 500.
Ranking by Broad Subject Fields
Ever since its publication, the ranking has attracted attention from all over the world. Numerous requests have been received, asking us to provide a ranking of world universities by broad subject fields or by schools and colleges. We have tried to respond to these requests and the results were published on our Web site in February 2007. The five broad subject fields include the natural sciences and mathematics, engineering/technology and computer sciences, life and agriculture sciences, clinical medicine and pharmacy, and the social sciences.
Arts and humanities were not ranked because of the technical difficulties in finding internationally comparable indicators with reliable data. Psychology and other cross-disciplinary fields were not included in the ranking because of their interdisciplinary characteristics. Two new indicators were introduced: first, the percentage of articles published in the top 20 percent journals of each broad subject field and, second, the research expenditures (for engineering ranking). The list of top 100 universities in each broad subject field was published.
Ongoing Efforts to Diversify the Ranking
The Academic Ranking of World Universities sought to rank research universities in the world by their academic or research performance based on internationally comparable third-party data that everyone could check. The project was carried out for our academic interests, with potential impact on the strategic planning of Chinese universities.
Methodological problems involve the balance of research with teaching and service in ranking indicators and weights—inclusion of non-English publications, the selection of awards, and the experience of award winners. Technical problems exist in the definition and name given to institutions, data searching and cleanup of databases, and attribution of publications to institutions and broad subject fields. We have been working hard to study all the above-mentioned problems and to improve our ranking.
In addition to the broad subject field ranking, we are surveying the possibilities of providing more diversified ranking lists, particularly rankings based on different types of universities with different functions, disciplinary characteristics, history, size, and budget, as well as other topics. Furthermore, we have been doing theoretical research on ranking in general, seeking to contribute to the understanding of ranking. We have also been actively participating in international societies related to ranking such as the International Ranking Expert Group—International Observatory on Academic Ranking and Excellence (http://www.ireg-observatory.org).
Conclusion
Any ranking is controversial, and no ranking is absolutely objective. Nevertheless, university rankings have become popular in almost all major countries in the world. Whether universities and other stakeholders agree, ranking systems clearly are here to stay. The key issue then becomes how to improve ranking systems and how to use their results properly. Ranking methodologies should always be examined carefully before looking at any ranking lists, and ranking results should be used with caution.
Authors note: For additional information about the Shanghai higher education rankings, see http://www.arwu.org.
--
Tin, bài có liên quan:
1. Ranking confession, ở đây.
Friday, March 19, 2010
Phải chăng vị thế quốc tế của giáo dục đại học Anh sắp tuột dốc?
Câu hỏi đặt ra trong tựa của entry này cũng là một phần của tựa bài viết mới trên Tờ Independent của Anh sáng nay, tựa đầy đủ là "The Big Question: Is Britain's international ranking in higher education likely to fall?"
Dịch tựa này ra tiếng Việt đầy đủ và chính xác là: "Câu hỏi lớn: Phải chăng vị trí xếp hạng quốc tế của giáo dục đại học Anh sắp bị tuột?"
Bài viết ấy ở đây.
Một chút bối cảnh, tóm tắt từ bài viết nêu trên:
Chính phủ Anh vừa có quyết định cắt giảm kinh phí dành cho giáo dục đại học. Theo HEFCE (Higher Education Funding Council), cơ quan cấp phát kinh phí giáo dục đại học của Anh, 3/4 các trường đại học của Anh đang chịu sự cắt giảm thực sự về ngân sách công, trong đó có một số trường bị cắt giảm nặng hơn nhiều so với các trường khác. Ví dụ Trường Kinh doanh London bị cắt đến 14% ngân sách công, hoặc Trường Đại học Reading bị cắt giảm 7.7%. Trong khi đó, Trường ĐH Worcester lại được tăng đến 13% ngân sách do số sinh viên tăng lên.
Từ bối cảnh này, tác giả của bài viết trên đặt ra một loạt các câu hỏi đầy "thách đố" đối với độc giả, mà tôi tin là "độc giả đích" (target audience) mà bài viết nhắm đến chính là chính phủ Anh. Những câu hỏi đó được nêu dưới đây:
1. Chính phủ sẽ cắt giảm cái gì?
2. Liệu sự cắt giảm này có làm giảm số giảng viên và sinh viên không?
3. Chúng ta có nên lo lắng không?
4. Có trường đại học nào sẽ bị đóng cửa (vì không hoạt động được) không?
5. Các nước khác có làm giống chúng ta không?
6. Vị thế toàn cầu của nước Anh có sẽ bị ảnh hưởng không?
7. Việc gì đang diễn ra tại Trung Quốc và Ấn Độ?
7. Vị thế tương đối của chúng ta (tức nước Anh) trên thế giới có quan trọng không?
8. Các trường kêu ca về việc cắt giảm kinh phí có đúng không?
Mỗi câu hỏi nói trên đều được trả lời trong bài viết, mà nếu ai muốn biết thì xin đọc bản gốc, và để lại comments trong bài viết này để có thể tạo một cuộc tranh luận ở đây. Riêng câu trả lời cho câu hỏi số 8 cũng là kết luận của bài viết nên sẽ được trích dẫn nguyên văn và dịch dưới đây:
Yes...
* If the reductions were to continue, there would be serious cause for concern
* For the sake of the economy, cutting higher education is not a good idea
* We will be limiting opportunities for the next generation, who deserve much better
Đúng, vì:
- Nếu tiếp tục cắt giảm kinh phí thì chắc chắn sẽ rất đáng lo ngại trong tương lai
- Cắt giảm kinh phí trong giáo dục đại học sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế
- Chúng ta sẽ làm giảm cơ hội của thế hệ sau, những người xứng đáng được hưởng cơ hội tốt hơn
No...
* Overall the cuts are pretty minor and universities can live with them; they're well paid already
* Higher education has to take its share of the pain when the nation is so indebted
* Universities could do with a bit of a shake-up and learn to be more efficient
Không đúng, vì:
- Nhìn chung việc cắt giảm cũng nhỏ thôi và các trường sẽ tồn tại tốt; hiện nay họ cũng khá ung dung rồi
- Giáo dục đại học cũng cần phải chia sẻ nỗi đau chung khi cả nước đang lâm vào tình trạng nợ nần như vậy
- Các trường đại học cũng cần được "xốc lại" và tìm cách hoạt động sao cho đạt hiệu suất cao hơn
Tất cả những điều trên có nghĩa gì đối với VN? Có thể tóm tắt trong một câu ngắn gọn: Trên khắp thế giới, giáo dục đại học đều cần 2 nguồn kinh phí: kinh phí công và kinh phí tư nhân.
Tỷ lệ đóng góp giữa 2 nguồn kinh phí này sẽ tùy thuộc vào sự giàu có của quốc gia đó. Tuy nhiên, sự chung tay góp sức của cả hai nguồn kinh phí, hay nói cách khác là sự tồn tại vai trò của cả 2 bên, một bên là nhà nước và một bên là thị trường, là hết sức cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đại học của một quốc gia.
Thiếu một bên chắc chắn sẽ làm yếu đi sự phát triển của giáo dục đại học. Giống như người "cà thọt", đi một chân, thay vì đi hai chân.
--
Các bài viết có liên quan:
1. Sinh viên Anh đổ xô ra nước ngoài để tìm các chương trình học với học phí rẻ hơn và chất lượng tốt hơn. Ở đây.
2. Không nên cắt giảm chỗ học trong trường đại học. Ở đây.
3. Thất bại của thị trường, đại học và học phí. Ở đây.
Dịch tựa này ra tiếng Việt đầy đủ và chính xác là: "Câu hỏi lớn: Phải chăng vị trí xếp hạng quốc tế của giáo dục đại học Anh sắp bị tuột?"
Bài viết ấy ở đây.
Một chút bối cảnh, tóm tắt từ bài viết nêu trên:
Chính phủ Anh vừa có quyết định cắt giảm kinh phí dành cho giáo dục đại học. Theo HEFCE (Higher Education Funding Council), cơ quan cấp phát kinh phí giáo dục đại học của Anh, 3/4 các trường đại học của Anh đang chịu sự cắt giảm thực sự về ngân sách công, trong đó có một số trường bị cắt giảm nặng hơn nhiều so với các trường khác. Ví dụ Trường Kinh doanh London bị cắt đến 14% ngân sách công, hoặc Trường Đại học Reading bị cắt giảm 7.7%. Trong khi đó, Trường ĐH Worcester lại được tăng đến 13% ngân sách do số sinh viên tăng lên.
Từ bối cảnh này, tác giả của bài viết trên đặt ra một loạt các câu hỏi đầy "thách đố" đối với độc giả, mà tôi tin là "độc giả đích" (target audience) mà bài viết nhắm đến chính là chính phủ Anh. Những câu hỏi đó được nêu dưới đây:
1. Chính phủ sẽ cắt giảm cái gì?
2. Liệu sự cắt giảm này có làm giảm số giảng viên và sinh viên không?
3. Chúng ta có nên lo lắng không?
4. Có trường đại học nào sẽ bị đóng cửa (vì không hoạt động được) không?
5. Các nước khác có làm giống chúng ta không?
6. Vị thế toàn cầu của nước Anh có sẽ bị ảnh hưởng không?
7. Việc gì đang diễn ra tại Trung Quốc và Ấn Độ?
7. Vị thế tương đối của chúng ta (tức nước Anh) trên thế giới có quan trọng không?
8. Các trường kêu ca về việc cắt giảm kinh phí có đúng không?
Mỗi câu hỏi nói trên đều được trả lời trong bài viết, mà nếu ai muốn biết thì xin đọc bản gốc, và để lại comments trong bài viết này để có thể tạo một cuộc tranh luận ở đây. Riêng câu trả lời cho câu hỏi số 8 cũng là kết luận của bài viết nên sẽ được trích dẫn nguyên văn và dịch dưới đây:
Yes...
* If the reductions were to continue, there would be serious cause for concern
* For the sake of the economy, cutting higher education is not a good idea
* We will be limiting opportunities for the next generation, who deserve much better
Đúng, vì:
- Nếu tiếp tục cắt giảm kinh phí thì chắc chắn sẽ rất đáng lo ngại trong tương lai
- Cắt giảm kinh phí trong giáo dục đại học sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế
- Chúng ta sẽ làm giảm cơ hội của thế hệ sau, những người xứng đáng được hưởng cơ hội tốt hơn
No...
* Overall the cuts are pretty minor and universities can live with them; they're well paid already
* Higher education has to take its share of the pain when the nation is so indebted
* Universities could do with a bit of a shake-up and learn to be more efficient
Không đúng, vì:
- Nhìn chung việc cắt giảm cũng nhỏ thôi và các trường sẽ tồn tại tốt; hiện nay họ cũng khá ung dung rồi
- Giáo dục đại học cũng cần phải chia sẻ nỗi đau chung khi cả nước đang lâm vào tình trạng nợ nần như vậy
- Các trường đại học cũng cần được "xốc lại" và tìm cách hoạt động sao cho đạt hiệu suất cao hơn
Tất cả những điều trên có nghĩa gì đối với VN? Có thể tóm tắt trong một câu ngắn gọn: Trên khắp thế giới, giáo dục đại học đều cần 2 nguồn kinh phí: kinh phí công và kinh phí tư nhân.
Tỷ lệ đóng góp giữa 2 nguồn kinh phí này sẽ tùy thuộc vào sự giàu có của quốc gia đó. Tuy nhiên, sự chung tay góp sức của cả hai nguồn kinh phí, hay nói cách khác là sự tồn tại vai trò của cả 2 bên, một bên là nhà nước và một bên là thị trường, là hết sức cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đại học của một quốc gia.
Thiếu một bên chắc chắn sẽ làm yếu đi sự phát triển của giáo dục đại học. Giống như người "cà thọt", đi một chân, thay vì đi hai chân.
--
Các bài viết có liên quan:
1. Sinh viên Anh đổ xô ra nước ngoài để tìm các chương trình học với học phí rẻ hơn và chất lượng tốt hơn. Ở đây.
2. Không nên cắt giảm chỗ học trong trường đại học. Ở đây.
3. Thất bại của thị trường, đại học và học phí. Ở đây.
Sunday, March 14, 2010
Tài liệu cần lưu: Chinese University Rankings

http://www.wes.org/ewenr/10feb/practical.htm
Chinese University Rankings
By Nick Clark, Editor, World Education News & Reviews
As a companion to this month’s feature on Chinese secondary school credentials and higher education admissions, we are offering a quick guide to Chinese university rankings and some of the issues surrounding the industry. This should be considered an update to our August 2006 look at Chinese university rankings, which delves a little deeper into the methodologies of the various different rankings.
The first point to consider when thinking about Chinese university rankings is that ministry of education officials have been fairly consistent in their opposition to university rankings. While government disregard for rankings has not curbed the non-governmental production of university league tables, it has impacted the availability of official information and data and thus the robustness of ranking methodologies and criteria, making the ranking of colleges somewhat problematic and unreliable.
The non-official rankings that are produced have therefore come in for a certain amount of criticism for lacking empirical depth and perhaps more significantly for being open to corrupt practices, such as cash for ‘institutional ranking tutoring.’
Beijing and Tsinghua Reign Supreme
Methodology considerations aside, just about every Chinese ranking you will ever see ranks two universities – Peking (Beijing) and Tsinghua – as the two best schools in the country. Almost without exception, the very best students in the annual national admissions examination choose one of the two academic powerhouses as their study destination of choice. Beijing has historically had a stronger arts and pure science focus than Tsinghua, which has its roots in engineering. Those biases have eased in recent years, as both schools have broadened their recruiting focuses to achieve a more balanced student and faculty body, but subject rankings suggest that the perceptions persist.
Moving beyond the top two schools, the top ten in the rankings also tend to be fairly uniform and it is only when you look beyond the top ten that the school placings become a little less predictable.
Government Rankings
Perhaps the most significant ranking of top institutions – although not technically a ranking, more a club – is the recently announced C9 group of universities. The group, which was announced in October of last year, have signed cooperative agreements that allow for flexible student exchange programs between member institutions, deepened cooperation on the training of postgraduates, and the establishment of a credit system to facilitate the earning of credits at any member university.
The C9, or ‘Chinese Ivy League’ as the group was quickly dubbed by media outlets across the world, has been backed by the Chinese government, which has been working for over a decade to elevate a group of Chinese higher education institutions to elite, world-class status. The stage prior to the adoption of the C9 was the 1988 launch of the 985 project by President Jiang Zemin, who wanted to channel supplemental funding to a select group of research-focused institutions. Today, there are 30 universities additional to the C9 universities in the 985 club, with funding that has averaged US$92 million per institution for scientific research (and as high as $132 million for Beijing and Tsinghua).
From that group of 39 universities, the C9 has clubbed together in what might be seen as a final selection of universities from the 985 project that will spearhead China’s efforts to produce truly world-class universities that can be competitive on a global scale both in attracting talent and in producing research.
Four Tiers
On an institutional level, it might be considered that there is a four-tier hierarchy of top institutions with two at the pinnacle, followed by a group of seven in the second tier, a group of 30 in the third tier, and a group of 85 in a fourth tier of universities that are deemed to have excellence in particular key disciplines as defined by the 211 Project. With funding and prestige tied to an institution’s position among these four tiers, it appears that this hierarchy is somewhat self-sustaining, with the best students seeking out places at top-ranked schools and funding following them:
The pinnacle:
Beijing University
Tsinghua University
Other C9:
Fudan University
Harbin Institute of Technology
Nanjing University
Shanghai Jiao Tong University
University of Science and Technology of China
Xi'an Jiao Tong University
Zhejiang University
985:
Tianjin University
Huazhong University of Science and Technology
Xiamen University
Hu'nan University
Central South University (also known as Zhongnan University)
Beijing Institute of Technology
Nankai University
Southeast University
Wuhan University
Shandong University
Ocean University of China
Jilin University
Dalian University of Technology
Chongqing University
Sichuan University
Northeast University
Tongji University
Beihang University (also known as Beijing University of Aeronautics and Astronautics)
University of Electronic Science and Technology of China
Lanzhou University
Northwestern Polytechnical University
Beijing Normal University
China Agriculture University
Central University of Nationalities
Renmin University of China (also known as People’s University)
Northwest Agricultural and Forestry University
National University of Defence Technology
South China University of Science and Technology
Sun Yat-Sen University (also known as Zhongshan University)
East China Normal University
211
Anhui University
Beijing Foreign Studies University
Beijing Forestry University
Beijing Jiaotong University
Beijing Sport University
Beijing University of Chemical Technology
Beijing University of Chinese Medicine
Beijing University of Posts and Telecommunications
Beijing University of Technology
Central Conservatory of Music
Central University of Finance and Economics
Chang'an University
China Pharmaceutical University
China University of Geosciences
China University of Mining and Technology
China University of Petroleum
China University of Political Science and Law
Communication University of China
Dalian Maritime University
Donghua University
East China University of Science and Technology
Fourth Military Medical University
Fudan University
Fuzhou University
Guangxi University
Guangzhou University of Traditional Chinese Medicine
Guizhou University
Hainan University
Harbin Engineering University
Harbin Institute of Technology
Hebei University of Technology
Hefei University of Technology
Hohai University
Huazhong Agricultural University
Huazhong Normal University
Hunan Normal University
Inner Mongolia University
Jiangnan University
Jinan University
Liaoning University
Nanchang University
Nanjing Agricultural University
Nanjing Normal University
Nanjing University
Nanjing University of Aeronautics and Astronautics
Nanjing University of Science and Technology
National University of Defense Technology
Ningxia University
North China Electric Power University
Northeast Agricultural University
Northeast Forestry University
Northeast Normal University
Northwest University
Peking Union Medical College
Peking University
Qinghai University
Second Military Medical University
Shaanxi Normal University
Shanghai International Studies University
Shanghai Jiao Tong University
Shanghai University
Shanghai University of Finance and Economics
Shihezi University
Sichuan Agricultural University
South China Normal University
Southwest Jiaotong University
Southwestern University of Finance and Economics
Suzhou University
Taiyuan University of Technology
Tianjin Medical University
Tsinghua University
University of International Business and Economics
University of Science and Technology Beijing
University of Science and Technology of China
University of Tibet
Wuhan University of Technology
Xi'an Jiaotong University
Xidian University
Xinjiang University
Xinjiang Medical University
Yanbian University
Yunnan University
Zhejiang University
Zhengzhou University
Zhongnan University of Economics and Law
Quasi- governmental Graduate Rankings: The CDGDC
The China Academic Degrees & Graduate Education Development Center (CDGDC) is an administrative department directly under the Ministry of Education, operating under the joint leadership of The Ministry of Education and The Academic Degrees Committee of the State Council.
One of the main functions of the department is to undertake evaluations and appraisals of academic degrees and graduate education on behalf of the ministry, and as part of that role ranks graduate schools by National Key Discipline. The first such ranking was undertaken in 2002 and finished in 2004. A second round of evaluations was conducted between 2007 and 2009 with a total of 81 programs evaluated.
While the CDGDC has identified the top institutions in each program area, a methodology for the scores has proven hard to come by.
For the most recent ranking exercise (2007-09), we received a translated document with a ranking of 20 disciplines from a researcher on the project, Mr. Luo at Hebei University of Science and Technology, mainly in the arts and pure sciences. We have included the top three in each field, but can provide the full rankings for each discipline upon request. The full rankings are available in Chinese from: http://newepaper.bjd.com.cn/bjwb/html/2009-02/10/content_115942.htm.
Philosophy
Peking University
Renmin University
Sun Yat-Sen University
Fudan University
Nanjing Univeristy
Theoretical Economics
1. Renmin University
2. Peking University
2. Nankai University
4. Fudan University
5. Nanjing University
Applied Economics
1. Renmin University
2. Peking University
3. Central University of Finance & Economics
3. Shanghai University of Finance & Economics
3. Xiamen University
Law
1. Renmin University
2. China University of Political Science & Law
3. Peking University
3. Wuhan University
5. Jilin University
Political Science
1. Peking University
1.Renmin University
3.Fudan university
3.Central China Normal University
5.Nankai University
5.Central Party School
Ethnology
1. Yunnan University
2. Lanzhou University
3. Inner Mongolia University
4. Xiamen University
5. Qinghai University for Nationalities
Sociology
1. Renmin University
2. Peking University
3. Nankai University
3.Nanjing University
3.Sun Yat-sen University
Education
Beijing Normal university
East China Normal University
Nanjing Normal University
Huangzhong Normal University
Northeast Normal University
Psychology
1. Beijing Normal University
2. Peking University
3. Zhejiang University
3.South China Normal University
5.East China Normal University
Sport Science
1. Beijing Sport University
2. Shnghai University of Sport
3. South China Normal University
4. East China Normal university
5. Tsinghua University
5.Chengdu Sport University
Chinese Language and Literature
Beijing Normal University
Peking University
Fudan University
Nanjing University
Sichuan University
Foreign Languages and Literature
Peking University
Beijing Foreign Studies University
Guangdong University of Foreign Studies
Nanjing University
Tsinghua University
Journalism and Communication
1. Renmin University
2. Communication University
2.Fudan University
4.Tsinghua University
4.Wuhan University
Art
1. Tsinghua University
2. Communication University of China
3. Southeast University
4. Beijing Normal University
5. Nanjing University
5.Nanjing Arts Institute
History
1. Peking University
2. Nankai University
3. Beijing Normal University
3.Fudan University
5.Renmin University
5.Nanjing University
5.Sun Yat-Sen University
Mathematics
1.Peking University
2.Fudan University
3.Nankai University
4.Zhejiang University
5.University of Science and Technology
Physics
1.Nanjing University
2.University of Science and Technology of China
3.Peking University
4.Tsinghua University
5.Fudan University
5.Zhejiang University
Chemistry
1.Peking University
1.Nankai University
3.Nanjing University
4.Fudan University
4.University of Science and Technology of China
Geography
1.Peking University
2.Beijing Normal University
2.East China Normal University
4.Nanjing University
5.Lanzhou University
Business Administration
1.Tsinghua University
1.Xian Jiao Tong University
3.Renmin University
3.Nankai University
5.Nanjing University
Chinese Academy of Management Science
The Chinese Academy of Management Science, a division of the Chinese Academy of Social Sciences, produces an annual ranking of Chinese universities. The methodology is somewhat unclear, but the table below offers a yearly look at the top 20 schools from 2002 to 2009.
Top 20 universities
University (membership of C9/985) 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tsighua (C9-985) 1 1 1 1 1 1 1 1
Peking (C9-985) 2 2 2 2 2 2 2 2
Zhejiang (C9-985) 3 3 3 3 3 3 3 3
Shanghai Jiao Tong (C9-985) 10 9 9 7 4 4 4 4
Nanjing (C9-985) 5 6 6 5 6 5 5 5
Fudan (C9-985) 4 4 4 4 5 6 6 6
University of Science and Technology (C9-985) 14 15 15 11 13 11 7 7
Sun Yat-Sen (985) 11 10 11 10 10 12 12 8
Huazhong University of Science and Technology (985) 6 5 5 6 7 7 8 9
Wuhan (985) 7 7 7 8 8 8 9 10
Jilin (985) 9 8 8 9 9 9 11 11
Xian Jiao Tong (C9-985) 8 12 12 14 12 10 10 12
Sichuan (985) 12 13 10 12 11 13 13 13
Harbin Institute of Technology (C9-985) 15 11 13 13 14 14 14 14
Nankai (985) 21 19 19 18 17 17 16 15
Shandong (985) 13 14 14 15 15 15 15 16
Beijing Normal (985) - - - - - - - 17
Tianjin (985) - - - - - - - 18
Central South (985) - - - - - - - 19
Southeast (985) - - - - - - - 20
Renmin (985) - - - - - - - 21
Source: China Academy of Social Sciences, retrieved from: Wikipedia
Top 50 Universities in China: Institute of Higher Education, Renmin University
The Institute of Higher Education at Renmin University produced a ranking of China’s top 50 universities based on an institution’s organizational strength and social influence.
The ranking uses a methodology that it describes as being divided 60/40 between ‘core competitiveness’ and ‘social influence’ respectively. The indicators under the core competitiveness section are ‘quantity & structure of national key disciplines’ (30%), ‘national discipline ranking’ (10%), ‘articles indexed in Science Citation Index’ (10%), ‘articles indexed in Chinese Social Sciences Citation Index’ (10%). The indicators under the social influence section are ‘average scores in national matriculation test’ (30%), ‘university name search index (7%), and ‘university president search frequency (3%).
Due to data limitations, the ranking only looked at 80 or so universities directly affiliated to the Ministry of Education, to the former Committee of Science & Technology and Industry for National Defense (COSTIND), and to the Chinese Academy of Sciences.
Results (2008):
1. Peking University
2. Tsinghua University
3. Fudan University
4. Renmin University of China
5. Zhejiang University
6. Nanjing University
7. University of Science and Technology of China
8. Beijing Normal University
9. Nankai University
10. Shanghai Jiaotong University
11. Wuhan University
12. Xi’an Jiaotong University
13. Beihang University
14. Sun Yat-sen University
15. Xiamen University
16. Tianjing University
17. Harbin Institute of Technology
18. Huazhong University of Science and Technology
19. East China Normal University
20. Tongji University
21. Sichuan University
22. China Agricultural University
23. Shandong University
24. Southeast University
25. Jilin University
26. Dalian University of Technology
27. Beijing Institute of Technology
28. Central South University
29. Shanghai University of Finance and Economics
30. Beijing Foreign Studies University
31. China University of Political Science and Law
32. University of Science and Technology Beijing
33. Northwest Polytechnic University
34. Central University of Finance and Economics
35. University of International Business and Economics.
36. Hunan University
37. Beijing University of Post and Telecommunications
38. Beijing Jiaotong University
39. Nanjing University of Science and Technology
40. East China University of Science and Technology
41. Ocean University of China
42. Chongqing University
43. Northeast University
44. Huazhong Normal University
45. South China University of Technology
46. Shanghai International Studies University
47. Lanzhou University
48. Nanjing University of Aeronautics and Astronautics
49. Northeast Normal University
50. Communication University of China
QS Asia Ranking
The research group that used to perform the research for the Times Higher World Ranking of Universities, QS, undertook a ranking of Asian universities last year. According to the QS findings, the best universities in China are as follows:
Peking University (10=)
Tsinghua University (15=)
University of Science & Technology of China (24)
Fudan University (26)
Nanjing University (27)
Shanghai Jiao Tong University (29)
Zhejiang University (32)
Tianjin University (70)
Xian Jiao Tong University (75)
Tongji University (94)
Southeast University (95)
Shandong University (101=)
Beijing Normal University (110=)
Jilin University (116)
Nankai University (121)
Sun Yat-Sen University (125=)
East China University of Science & Technology (140)
Hunan University (143)
Nanjing Agricultural University (144=)
Beijing Institute of Technology (146)
East China Normal University (148)
Lanzhou University (150=)
Xiamen University (151=)
Yunnan University (151=)
Dalian University of Technology (151=)
Donghua university (161=)
Suzhou University (161=)
China Agricultural University (161=)
Nanjing University of Aeronautics and Astronautics (161=)
Huazhing University of Science and Technology (161=)
Renmin University (171=)
Northwestern Polytechnic university (171=)
Beihang University (181=)
Sichuan University (181=)
South China University of Technology (181=)
Nanjing Normal University (191=)
Northeast Normal university (1919=)
Beijing Foreign Studies University (191=)
* Regional ranking in parentheses.
** An overview of the ranking methodology is available from: www.topuniversities.com/university-rankings/asian-university-rankings/
2008/methodology/simple-overview
QS World Ranking
Same ranking organization, less regionally oriented methodology, different results:
Tsighua University (49)
Peking University (52)
Fudan University (103)
Shanghai Jiao Tong University (153)
University of Science and Technology of China (154)
Nanjing University (168)
Zhejiang University (247)
Jilin University (401-500)
Xian Jiao Tong University (401-500)
Tongji University (401-500)
Tianjin University (401-500)
Southeast University (501-600)
Shandong University (501-600)
* Global Ranking in parentheses
** An overview of the ranking methodology is available from: www.topuniversities.com/university-rankings/world-university-rankings/
methodology/simple-overview
Shanghai Jiao Tong World Rankings
And finally, the view from China’s ranking of world universities:
1=. Nanjing University (201-302)
1=. Peking University (201-302)
1=. Shanghai Jiao Tong University (201-302)
1=. Tsinghua University (201-302)
1=. University of Science and Technology of China (201-302)
1=. Zhejiang University (201-302)
7=. Fudan University (303-401)
7=. Shandong University (303-401)
9=. China Agricultural University (402-501)
9=. Dalian University of Technology (402-501)
9=. Harbin Institute of Technology (402-501)
9=. Huazhong University of Science and Technology (402-501)
9=. Jilin University (402-501)
9=. Lnzhou University (402-501)
9=. Nankai University (402-501)
9=. Sichuan University (402-501)
9=. Sun Yat-Sen University (402-501)
9=. Tianjin University (402-501)
* Global Ranking in parentheses
** An overview of the ranking methodology is available from: www.arwu.org/ARWUMethodology2009.jsp
Other Rankings
China University Alumni Center Rankings:
• http://www.chinaeducenter.com/en/universityranking1.php (English)
• http://cuaa.net/cur/introduction/ (Chinese)
Netbig: http://rank2008.netbig.com/cn/ (Chinese)
Research Center for Chinese Science Evaluation: http://rccse.whu.edu.cn/
An overview (in English) of the 2010 ranking can be found at the following news source: www.lifeofguangzhou.com/node_10/node_37/node_82/2010/01/29/
126472836273833.shtml
For more on Chinese rankings and ranking methodologies, please see the August 2006 issue of WENR. http://www.wes.org/ewenr/06aug/china.htm
---
Useful links:
http://www.arwu.org/ARWUMethodology2009.jsp
Subscribe to:
Posts (Atom)