Saturday, December 21, 2013

Liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam, từ góc nhìn quản lý


Bài viết mới của tôi, đã đăng trên báo Nhân Dân với ít nhiều biên tập. Xem ở đây: http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/chuyen-de/item/21936602-lien-ket-dao-tao-quoc-te-dang-bi-buong-long.html

 Dưới đây là bản gốc chưa biên tập:
-------------

Liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam, từ góc nhìn quản lý
 Thượng vàng hạ cám
Khả năng hội nhập hay mức độ quốc tế hóa là một trong những yêu cầu quan trọng của giáo dục đại học trong thế kỷ 21. Nếu đo lường khả năng này bằng sự hiện diện của các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài thì ta có thể khẳng định giáo dục đại học của Việt Nam có mức độ quốc tế hóa rất cao.
Sự tồn tại của các chương trình đào tạo liên kết ở một nước kém phát triển là một điều tích cực vì nó góp phần đáp ứng mục tiêu phát triển trong thời đại kinh tế tri thức. Đây cũng là một xu hướng của giáo dục đại học trên thế giới, trong đó những nước có nền giáo dục tiên tiến cung cấp dịch vụ giáo dục cho những nước kém phát triển hơn. Điều này phổ biến đến nỗi nó đã được nêu trong Hiệp định thương mại và dịch vụ (GATS) của tổ chức WTO.
Nhưng giáo dục xuyên biên giới cũng luôn hàm chứa những rủi ro lớn cho các nước đang phát triển, như các tổ chức quốc tế đã cảnh báo[1]. Không khó hiểu, bởi để phán đoán đúng về chất lượng của một chương trình đào tạo đại học nước ngoài đòi hỏi phải có một trình độ khá cao và ít nhiều trải nghiệm về giáo dục quốc tế, điều mà người tiêu dùng giáo dục ở các nước đang phát triển rất thiếu.
Sự thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm và thiếu khả năng phán đoán vừa nêu đã khiến cho việc liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam trong thời gian qua ít phát huy được những lợi ích cho người tiêu dùng giáo dục và cho toàn xã hội, mà trái lại, tạo ra khá nhiều hệ lụy. Có thể tóm tắt tình hình liên kết đào tạo tại Việt Nam trong câu thành ngữ “thượng vàng hạ cám” – trong đó vàng thì ít mà cám lại rất nhiều.
Mất bò mới lo làm chuồng?
Dư luận vẫn chưa quên được các vụ scandal nổ ra liên tiếp về trong khoảng thời gian 2009-2011 khi báo chí liên tục phanh phui ra các trường dỏm, bằng giả, chương trình ảo vv. Câu hỏi đặt ra là: Không có ai quản lý ư, nếu có thì họ ở đâu, làm gì? Xin thưa: Cơ quan quản lý có tồn tại nhưng hầu như chỉ vào cuộc sau khi có những vụ việc bị vỡ lở, thiệt hại đã xảy ra và báo chí đã phanh phui. Tất nhiên, đến lúc ấy thi mọi rủi ro đều do người tiêu dùng hứng chịu, còn mọi lỗi lầm đều thuộc về các đơn vị đã thực hiện liên kết. Hóa ra, trong tất cả những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu, chỉ có nhà quản lý là luôn luôn an toàn, không chịu rủi ro mà dường như cũng chẳng bao giờ chịu nhiệm gì cả.
Một điều khá phổ biến là các cơ sở đào tạo tự thực hiện liên kết mà không xin phép. Đây rõ ràng là lỗi của các cơ sở, nhưng cơ quản lý cũng không phải là không có trách nhiệm, vì họ hoàn toàn có thể khống chế được tình trạng trên. Chẳng hạn, tại TH HCM, trong mùa tuyển sinh 2013 Sở Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường kiểm tra giấy phép các cơ sở đào tạo có tổ chức quảng bá và tuyển sinh nhằm làm giảm tình trạng liên kết bừa bãi như hiện nay. Giá như chúng ta làm điều này từ trước thì đã tránh được biết bao tổn thất cho xã hội.
Ngay cả một cơ sở đào tạo đại học hàng đầu của Việt Nam là ĐHQG Hà Nội cũng mắc sai lầm. Vì thiếu thận trọng không chịu tìm hiểu thông tin trước khi quyết định, ĐHQG Hà Nội đã đẩy người học và cả chính mình vào một cuộc phiêu lưu đầy rủi ro khi liên kết với Đại học Griggs, không hề biết rằng ngay từ khi bắt đầu bước vào thị trường Việt Nam thì trường này đã có nhiều khó khăn về tài chính và đang đứng trước nguy cơ bị đóng cửa.
Điều tệ nhất đã xảy ra. Năm 2011, ĐH Griggs bị xóa sổ. Không rõ vô tình hay cố ý, chương trình liên kết tại ĐHQG Hà Nội vẫn tiếp tục hoạt động dưới danh nghĩa cũ với một đối tác đã không còn tồn tại. Sự việc bị phanh phui, các học viên bị thiệt hại về thời gian, công sức đã đành, mà ĐHQG Hà Nội và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cũng tốn rất nhiều chi phí hữu hình và vô hình để tìm ra cách giải quyết ổn thỏa nhất cho người học.[2] Một tổn thất quá lớn cho toàn xã hội; một kết cục không ai mong đợi. Rủi ro này thật ra quá dễ để ngăn ngừa, vì chỉ cần thực hiện nghiêm chỉnh quy trình kiểm tra đối tác trước khi liên kết.
Chất lượng hoàn toàn bỏ ngỏ
Ngay cả những chương trình đã được cấp giấy phép cũng không phải là không có vấn đề. Để giảm chi phí, các chương trình liên kết ở Việt Nam thường sử dụng giảng viên tại chỗ nhưng lại không kiểm soát chất lượng một cách nghiêm nhặt. Việc sử dụng giảng viên Việt Nam là một điều đáng khuyến khích; nhưng các cơ sở đào tạo của Việt Nam thường không có đủ giảng viên đáp ứng cả hai yêu cầu chuyên môn và ngoại ngữ, ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng giảng dạy. Ngoài ra, chương trình liên kết thường bị cắt xén khá nhiều so với chương trình gốc; thi cử thường không nghiêm vì nhiều cơ sở đào tạo chỉ mong có tỷ lệ đậu cao để tiếp tục thu hút học viên mới.
Trình độ ngoại ngữ của học viên là một vấn đề nghiêm trọng khác. Các chương trình liên kết ở Việt Nam thường cho học viên miễn hoặc nợ chứng chỉ ngoại ngữ ở đầu vào, thỉnh thoảng mới có nơi yêu cầu nộp chứng chỉ khi đã gần tốt nghiệp. Do không đủ trình độ ngoại ngữ nên học viên thường gặp khó khăn khi đọc tài liệu và nghe giảng. Việc gian lận trong học tập và thi cử cũng thường xuyên xảy ra mà không có ai kiểm soát.
Có thể khẳng định chất lượng của đa số chương trình liên kết quốc tế tại Việt Nam hiện đang rất bấp bênh. Nguyên do chính là các chương trình này hiện đang nằm ở vùng mờ, thoát ra ngoài sự kiểm soát của cả nước cung cấp lẫn nước tiếp nhận.
Quản lý chương trình liên kết: Đảm bảo chất lượng và cung cấp thông tin
Câu hỏi mà cấp quản lý các cấp tại Việt Nam cần đặt ra cho mình, đó là: Vì sao cũng là nơi tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới, nhưng những quốc gia lân cận như Thái Lan và Malaysia đã không trở thành nạn nhân như Việt Nam? Các nước này đã tận dụng xu hướng liên kết quốc tế để chọn lọc các trường đại học lớn đến mở chi nhánh trên đất nước của của mình, trở thành nơi thu hút người học từ các nước lân cận đến học (và tất nhiên là ngoại tệ của họ). Sẽ có người nhắc đến RMIT Việt Nam nhưng nếu xét theo tổng số người học chương trình nước ngoài thì RMIT Việt Nam thực chẳng thấm vào đâu.
Ngay từ giữa thập kỷ trước, OECD và UNESCO cũng đã đưa ra những khuyến nghị cho các nước đang phát triển nhằm tránh những rủi ro liên quan đến giáo dục xuyên biên giới[3]. Riêng với Việt Nam ở giai đoạn hiện nay, cần thực hiện ngay hai điều, đó là: “đảm bảo chất lượng” và “cung cấp thông tin”.
Về đảm bảo chất lượng, Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập trung vào việc kiểm soát đầu vào, chủ yếu là khâu cấp phép. Nhưng kiểm soát ở đầu vào là chưa đủ, mà còn phải kiểm tra trong suốt quá trình thực hiện. Các quy định về kiểm định chất lượng ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không đề cập đến chương trình liên kết quốc tế, một thiếu sót cần phải bổ sung ngay lập tức, và hoàn toàn không khó thực hiện.
Quan trọng không kém, nếu không muốn nói thậm chí còn quan trọng hơn, là việc cung cấp đầy đủ thông tin cho người học và toàn xã hội. Có thể khẳng định rằng nhà nước Việt Nam mà cụ thể là Bộ Giáo dục đang thực hiện điều này quá kém, hầu như không có vai trò gì, khiến người học bị quay mòng mòng trong một mớ hỗn độn thông tin không chọn lọc. Lẽ ra, công việc đầu tiên của chính phủ khi cho phép các chương trình liên kết quốc tế được triển khai trên đất nước mình là thiết lập một hệ thống thông tin miễn phí và dễ tiếp cận để người tiêu dùng có thể có những lựa chọn đúng đắn, tránh được các rủi ro. Đây là một khuyến cáo quan trọng của OECD và UNESCO được nhiều nước trong khu vực thực hiện nghiêm nhặt.
Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, thiết nghĩ việc hạn chế những tiêu cực và phát huy những điểm tích cực của liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam cũng là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng để góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Đặc biệt là khi mốc thời điểm 2015 với sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN đã thực sự cận kề.

Sunday, December 15, 2013

PISA VN 2012: Thế giới bất ngờ, dư luận nghi ngờ, rồi sao nữa?

Bài viết dưới đây tôi viết theo đặt hàng về đề tài của báo Nhân Dân (cuối tuần), đã đăng vào cuối tuần qua, ở đây: http://nhandan.com.vn/cuoituan/doi-song-xa-hoi/item/21882902-hieu-dung-ve-pisa-cho-viet-nam.html. Còn dưới đây là bản gốc, chưa qua biên tập, và cũng đã được đăng trên trang "học thế nào", ở đây: http://hocthenao.vn/2013/12/11/pisa-vn-2012-the-gioi-bat-ngo-du-luan-nghi-ngo-roi-sao-nua-vu-thi-phuong-anh/
------------
 PISA VN 2012: Thế giới bất ngờ, dư luận nghi ngờ, rồi sao nữa?

Chín người mười ý …
Kết quả kỳ thi PISA 2012 đã tạo ra một trận cuồng phong dư luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Mấy ngày qua, trên tờ báo nào cũng đầy ắp tin tức và bình luận về kết quả kỳ thi, với đủ mọi sắc thái tình cảm: từ bất ngờ, phấn khởi, mừng rỡ, đến nghi ngờ, dửng dưng, mai mỉa…

Có thể đoán được sự vui mừng của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nơi chịu trách nhiệm về toàn bộ kỳ thi. Không vui sao được, khi ngay lần tham gia đầu tiên Việt Nam đã đạt điểm cao hơn mức trung bình của OECD, hơn cả Anh, Mỹ, Úc…. Niềm vui này biểu hiện rõ qua những tiếng reo vui trên mặt báo như “gây bất ngờ cho cả thế giới” [1], “khơi dậy trí tuệ Việt”[2], “xếp hạng cao hơn Anh, Mỹ”[3]…. Không chỉ vui, báo chí còn đồng thanh ca ngợi sự chuyên nghiệp của PISA và đánh giá cao sự “dũng cảm” của Việt Nam khi quyết định tham gia vào một sân chơi quốc tế.

Cùng với sự vui mừng, các ý kiến trái chiều xuất hiện ngay lập tức. Khi nhiều người vẫn còn “say sưa với chiếc bánh PISA”,[4]đã có lời cảnh tỉnh là “nên thận trọng”;[5] kỳ thi này “không phản ánh toàn bộ năng lực”[6] của học sinh, càng không cho biết về chất lượng của cả nền giáo dục.Tính chính xác của kết quả PISA bị nghi ngờ: liệu kỳ thi “có thực chất”,[7] hay đã có sự can thiệp, chuẩn bị “luyện thi” từ phía Việt Nam? Và dù không có việc luyện thi thì “vượt Mỹ không có nghĩa là đã thành công”;[8]người Việt học giỏi nhưng nhân lực của Việt Nam luôn bị đánh giá là yếu, thiếu tính sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề, tinh thần trách nhiệm, sự hợp tác vv – những yếu tố quan trọng nhưng không hề đượcPISA kiểm tra.

Thầy bói mù sờ voi?
Các ý kiến trái ngược nhau khiến tất cả mọi người đều cảm thấy rất lúng túng: Biết tin ai khi cả hai đều có những lý lẽ thuyết phục – hoặc không thuyết phục – ngang nhau?

Không thể phủ nhận hoàn toàn giá trị của PISA. Theo dõi một vài nước lân cận trong khu vực, ta thấy đạt điểm cao trong kỳ thi này không hề dễ dàng. Trong 5 nước ASEAN tham gia PISA 2012, Việt Nam chỉ thua Singapore nhưng bỏ xa ba nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Thái Lan đã tham gia kỳ thi này liên tục 5 lần kể từ lần đầu tiên vào năm 2000 với kết quả thuộc vào hàng thấp. Viện Khảo thí Giáo dục Quốc gia (NIETS) sau đó đã được thành lập vào năm 2005 để thực hiện khảo sát chất lượng giáo dục dựa trên những bài kiểm tra theo kiểu PISA ở nhiều cấp học. Có nhiều khả năng Thái Lan đã cho các học sinh của mình làm quen rộng rãi với PISA. Nhưng kết quả năm 2012 của Thái Lan vẫn cứ ở mức cách xa trung bình của OECD[9].  Ấn Độ tham gia một lần vào năm 2009 với kết quả rất thấp, đến nỗi họ quyết định không tham gia kỳ thi năm 2012 nữa[10]. Hai ví dụ trên cho thấy kết quả PISA của Việt Nam cao ngay từ lần đầu tiên không phải là vô nghĩa.

Nhưng cũng không thể trách dư luận. Bỏ qua những nhận định như “nên xấu hổ vì người Việt học giỏi mà vẫn nghèo”, hoặc “giáo dục Việt Nam càng lên cao càng kém”, chỉ nói riêng về PISA ta vẫn có thể trách Bộ Giáo dục đã không cung cấp thông tin đầy đủ về kỳ thi, dẫn đến những nghi ngờ không cần thiết. Trang web của Bộ cho biết Việt Nam đã đăng ký tham gia PISA từ năm 2009; triển khai các hoạt động chuẩn bị từ năm 2010; tiến hành thử nghiệm vào năm 2011; khảo sát chính thức vào năm 2012. Có Ban Quản lý PISA cấp quốc gia, Văn phòng PISA Việt Nam trong Bộ Giáo dục, có cả Ban Chỉ đạo PISA ở mỗi tỉnh/thành phố. Nhưng thời gian dài chuẩn bị với bộ máy không nhỏ vẫn không đủ để tạo một trang web riêng cho PISA để phổ biến các thông tin cần thiết về kỳ thi, đáp ứng mối quan tâm và tạo điều kiện giám sát cho toàn xã hội.

Thông tin chính thức về kết quả kỳ thi nằm trong báo cáo về kỳ thi trên trang web của Bộ[11]. Báo cáo dài nhưng không nhiều thông tin, chủ yếu nêu những công tác mà Văn phòng PISA đã thực hiện chứ không phân tích sâu về kết quả. Có một chi tiết đáng chú ý, đó là: do Việt Nam không có trang web như các nước khác (!), nên Văn phòng PISA đã (phải) biên soạn công phu tài liệu tập huấn cho giáo viên. Nội dung đã có sẵn, nhưng công chúng vẫn không được giới thiệu trước về PISA. Hoàn toàn thiếu những thông tin quan trọng để diễn giải đúng kết quả kỳ thi. Thiếu những thông tin về khung mẫu, phương pháp chọn mẫu; nội dung và mục đích của các đợt tập huấn; thống kê mô tả về mẫu tham gia kỳ thi như danh sách các trường ở từng địa phương, số lượng học sinh ở từng trường, tỷ lệ nam-nữ, tỷ lệ thành thị-nông thôn …. Không ai quan tâm trả lời một thắc mắc đang râm ran trong dư luận như: Tại sao PISA dành cho học sinh 15 tuổi (cuối bậc trung học cơ sở), nhưng Việt Nam lại là những em ở tuổi 16 (sinh năm 1996, thi năm 2012)? Học sinh Việt Nam đã học gần xong lớp 10, đã vượt qua một kỳ thi chuyển cấp khó khăn trước đó, đây có phải là nguyên do dẫn đến kết quả cao?[12].

Cần hiểu đúng về PISA
Có lẽ, trước khi bàn thêm về ý nghĩa kết quả PISA 2012 đối với giáo dục Việt Nam, chúng ta cần thống nhất một thái độ đúng đắn về kỳ thi này. Thực ra, điều này đã được Thứ trưởng Nguyễn Minh Hiển đề cập đến từ đầu tháng 4/2012 trong một bài phỏng vấn trên báo Giáo dục Việt Nam, nói về “hai thái cực cần tránh”[13] đối với PISA. Hai thái cực đó là: quá coi trọng, xem đó là minh chứng cho sự ưu việt của giáo dục Việt Nam, hoặc quá coi thường, xem đó chỉ là những số liệu “thú vị”[14] không thực sự có ý nghĩa gì đối với nền giáo dục Việt Nam.

Tưởng cũng cần phải nhắc lại mục đích của PISA. Ngay cách chúng ta gọi PISA là “kỳ thi” (examination) cũng cho thấy cách hiểu chưa đúng về PISA, khi thực ra phải gọi đó là một kỳ “khảo sát” (survey), nhằm mục đích để hiểu hiện trạng chứ không phải để hơn thua. Dù một phần quan trọng của cuộc khảo sát được tính bằng điểm số, và kết quả của các nước tham gia được sắp xếp từ cao xuống thấp dựa trên số điểm của từng nước, nhưng PISA không nhằm so sánh năng lực của học sinh giữa các nước với nhau, mà chỉ là ghi nhận năng lực này đồng thời tìm mối liên hệ với các yếu tố khác mà đặc biệt là các yếu tố về chính sách để tìm ra nguyên nhân của hiện trạng đó, từ đó đưa ra những khuyến nghị chung về chính sách giáo dục mà tất cả các quốc gia đều có thể học hỏi và áp dụng.

Để làm điều này, PISA không chỉ khảo sát năng lực học sinh, mà còn thu thập thông tin qua một bảng hỏi dành cho học sinh để khảo sát sự say mê, động cơ học tập, và sự tự tin vào năng lực của bản thân[15]. Đây là một nguồn thông tin hết sức quan trọng nhưng hầu như chưa thấy ai đề cập đến, kể cả trong báo cáo của Bộ. Nếu kết hợp những thông tin này với kết quả khảo sát năng lực học sinh thì bức tranh về giáo dục Việt Nam có lẽ sẽ tối đi một chút – nhưng chắc cũng sẽ trở nên rõ nét và đáng tin hơn. Ví dụ, nên giải thích như thế nào về việc học sinh của Indonesia và Thái Lan đều cảm thấy hạnh phúc hơn nhiều so với học sinh Việt, trong khi học sinh Việt lại báo cáo trốn học, bỏ giờ học/buổi học nhiều hơn học sinh Indonesia và Thái Lan? Điều đó liệu có phải vì sức ép học hành quá nặng nề của gia đình và nhà trường đối với học sinh Việt, khiến các em dù học giỏi (đạt điểm cao) nhưng không hề cảm thấy hạnh phúc khi đến trường, như lâu nay ta vẫn tin như thế?
Đây mới chỉ là một ví dụ, trong khi còn rất nhiều thông tin khác mà ta có thể đọc được khi kết hợp các thông tin từ bảng hỏi với các thông tin của bài khảo sát năng lực mà lâu nay báo chí vẫn thường chú trọng quá mức. Tiếc rằng cho đến nay những thông tin ấy – đã được PISA công bố trong những báo cáo công phu trên trang web của tổ chức này – vẫn chưa được khai thác, phân tích và tổng hợp để cung cấp cho công chúng những hiểu biết sâu sắc hơn về chất lượng thực và hướng đi cần có của nền giáo dục Việt Nam.

Cuối cùng, có thể đưa ra một nhận xét mà có lẽ cả hai “phe” ủng hộ và không ủng hộ PISA đều đồng ý. Đó là: giáo dục Việt Nam còn quá thiếu những dữ liệu khách quan, đa chiều, kết hợp cả định lượng lẫn định tính, được phổ biến công khai, minh bạch cho mọi người cùng xem xét, tranh luận, giám sát. Đồng thời, chúng ta cũng rất thiếu những phân tích thận trọng và có chiều sâu của những nhà quan sát độc lập trên cơ sở các dữ liệu mà ai cũng có thể tiếp cận và kiểm chứng. Hai cái thiếu vừa nêu lâu nay vẫn luôn là một trong những điều bất cập trong quản lý giáo dục hiện nay; nó có thể cũng giải thích tại sao công chúng không có niềm tin vào giáo dục nước nhà, kể cả khi có những kết quả khách quan do một bên thứ ba độc lập thực hiện. Và nếu nhìn ở khía cạnh ấy thì việc tham gia PISA của Việt Nam, dù cho kết quả cao hay thấp, vẫn là một thay đổi quan trọng theo hướng tăng thêm sự minh bạch, tạo điều kiện giám sát, tranh luận, góp ý của tất cả các bên liên quan, để từ đó làm tăng thêm niềm tin đối với ngành giáo dục. Đó mới chính là lợi ích thực sự của việc tham gia PISA của Việt Nam.

Thursday, November 28, 2013

Cải cách kỳ thi TN THPT tại VN: Kinh nghiệm từ nước Mỹ

Bài viết theo đặt hàng của báo Nhân Dân cuối tuần. Sẽ xuất hiện trên bản in số Thứ Sáu 29/11/2013. Dưới đây là bản gốc của tôi.
-----------
Cải cách kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông tại Việt Nam: Kinh nghiệm từ nước Mỹ

Giữ kỳ thi tốt nghiệp, bỏ kỳ thi đại học: Ngạc nhiên chưa?
Sau một thời gian dài chuẩn bị, đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương 8 vừa qua. Một trong những nội dung đáng chú ý là kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông sẽ được đổi mới theo hướng kiểm tra năng lực, và kết quả của nó sẽ được sử dụng như một trong những căn cứ để tuyển sinh, thay thế cho kỳ thi đại học hiện nay.

Việc lựa chọn giải pháp thi cử như trên có lẽ sẽ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Còn nhớ cách đây vài tháng, phát biểu của một lãnh đạo cấp cao của Việt Nam về chất lượng của kỳ thi TN THPT đã làm dấy lên một cuộc tranh luận nóng bỏng về kỳ thi này. Lựa chọn của đa số dường như thiên về việc nên bỏ kỳ thi tốt nghiệp và giữ lại kỳ thi tuyển sinh đại học. Tỷ lệ đậu kỳ thi tốt nghiệp THPT trong những năm gần đây đều cao hơn 90%, khiến nhiều người nghi ngờ vào chất lượng của kỳ thi này, và cho rằng đây là một kỳ thi quá tốn kém mà chỉ nhằm để loại chỉ vài phần trăm thí sinh. Thay vào đó, có thể xem xét cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho toàn bộ học sinh sau khi học hết lớp 12, nhằm giảm áp lực để các em còn phải tập trung vào một kỳ thi quan trọng khác là kỳ thi đại học.

Xét dưới góc độ kinh tế, lập luận nói trên không phải là không có lý. Vậy tại sao giờ đây đề án đổi mới giáo dục lại đưa ra một lựa chọn không giống với lựa chọn của đa số để định hướng cho giáo dục Việt Nam trong những năm sắp đến?

Thi tốt nghiệp để làm gì?
Thực ra, những ý kiến lâu nay của dư luận xung quanh các kỳ thi phản ánh rất rõ cách hiểu còn hạn chế của nhiều người về mục đích của thi cử. Hai kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học là hai kỳ thi có mục đích hoàn toàn khác nhau và không nên nhầm lẫn. Kỳ thi tốt nghiệp nhằm đánh dấu sự hoàn tất một giai đoạn học tập kéo dài 12 năm của một học sinh, thời gian quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách và phát triển trí tuệ của người học, để chuẩn bị cho giai đoạn đào tạo chuyên nghiệp, hoặc bước vào thế giới việc làm. Vì vậy, kỳ thi này không bao giờ nhằm vào việc đánh rớt thí sinh, mà ngược lại, tỷ lệ đậu càng cao thì càng đáng mừng. Tất nhiên, mọi cuộc thi đều phải được tổ chức nghiêm túc, khách quan, và đánh giá được những năng lực cần đánh giá.

Kết quả của kỳ thi tốt nghiệp THPT cũng có thể sử dụng kết hợp với các tiêu chí khác để tuyển sinh hoặc cung cấp cho các nhà tuyển dụng khi đi làm, nhưng đó không phải là mục tiêu chính của kỳ thi này. Mục tiêu quan trọng nhất của kỳ thi tốt nghiệp là cung cấp thông tin phản hồi cho các bên liên quan: cho giáo viên và nhà trường về hiệu quả của quá trình dạy và học trước đó; và cho các nhà chính sách để giám sát và điều chỉnh mục tiêu giáo dục sao cho phù hợp với yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn. Nói vắn tắt, đây là kỳ thi quan trọng nhất của giai đoạn giáo dục phổ thông, là công cụ hữu hiệu để quản lý và thúc đẩy chất lượng giáo dục.

Kỳ thi tốt nghiệp và chất lượng giáo dục phổ thông
Để hiểu rõ tầm quan trọng của kỳ thi tốt nghiệp THPT đối với chất lượng của một nền giáo dục, có lẽ không có gì tốt bằng việc xem xét trường hợp Hoa Kỳ. Tại đất nước có nền giáo dục tự do và phân quyền rất cao này, giáo dục phổ thông do chính quyền tiểu bang quản lý. Việc tổ chức hay không tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp THPT cũng do từng tiểu bang quyết định, và trước khi đạo luật “No Child Left Behind” (tạm dịch: Không bỏ sót một đứa trẻ nào) ra đời vào năm 2001 thì hầu như mọi tiểu bang của Mỹ đều không yêu cầu học sinh tham gia một kỳ thi, mà cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho tất cả học sinh đã hoàn tất chương trình lớp 12.

Với sự ra đời của đạo luật “No Child Left Behind”, một đạo luật nhằm cải cách và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông của nước Mỹ để xứng đáng với vai trò của một cường quốc hàng đầu thế giới (nước Mỹ rất hiếm khi chiếm những vị trí cao nhất trong các kỳ thi học sinh quốc tế như PISA ), trong vòng một hơn một thập niên trở lại đây ngày càng có nhiều tiểu bang yêu cầu học sinh tham gia kỳ thi tốt nghiệp bắt buộc do chính phủ tiểu bang tổ chức.

Theo báo cáo năm 2012 của Trung tâm Nghiên cứu chính sách giáo dục (Center for Educational Policy, viết tắt là CEP) thuộc Đại học George Washington, tính đến thời điểm viết báo cáo đã có 26 tiểu bang áp dụng chính sách thi tốt nghiệp bắt buộc, trong đó có những tiểu bang khá nổi tiếng về những thành tựu kinh tế, khoa học, giáo dục như California, Massachussetts, New Jersey, New York . Nếu tính theo tỷ lệ học sinh thì số học sinh thuộc 26 tiểu bang này chiếm trên 70% tổng số học sinh trung học của nước Mỹ.  Và xu hướng này được tin là sẽ không dừng lại, mà còn tiếp tục gia tăng.

Vì sao một nước có truyền thống phi tập trung hóa và quan điểm nhất quán rằng nhà nước không  can thiệp sâu vào những công việc chuyên môn, giờ đây lại cảm thấy cần tổ chức kỳ thi  tốt nghiệp trung học phổ thông? Câu trả lời rất đơn giản: kỳ thi tốt nghiệp là một công cụ chính sách mà các nhà lãnh đạo có thể sử dụng để thúc đẩy quá trình cải cách giáo dục tại một địa phương.  Vì vậy, việc ngày càng có nhiều tiểu bang ở Mỹ áp dụng chính sách thi tốt nghiệp bắt buộc là một điều hoàn toàn không có gì lạ.

Nước Mỹ thi tốt nghiệp THPT như thế nào?
Mặc dù kỳ thi tốt nghiệp THPT được xem là một kỳ thi quan trọng nhất của giai đoạn giáo dục phổ thông, là công cụ hữu hiệu để quản lý và thúc đẩy chất lượng giáo dục, nhưng  điều đó không  đồng nghĩa với việc nó phải là một kỳ thi căng thẳng. Ngược lại, do bản chất là một kỳ thi đánh giá năng lực tiêu biểu chứ không phải là một kỳ thi cạnh tranh, kỳ thi tốt nghiệp phải được tổ chức nhẹ nhàng để không tạo áp lực cho người học.  Ở đây, một lần nữa chúng ta lại có thể tìm hiểu từ kinh nghiệm của nước Mỹ. 

Báo cáo năm 2012 của CEP (đã nêu ở trên) cho thấy kỳ thi tốt nghiệp THPT ở Mỹ khá nhẹ nhàng; đa số các tiểu bang ra đề thi chỉ dựa trên nội dung của chương trình lớp 10; một số ít hơn dựa trên chương trình lớp 11, và chỉ có 1/26 tiểu bang dựa  trên chương trình lớp 12. Số môn thi cũng không nhiều, đa số chỉ tổ chức thi 3 hoặc 4 môn, thậm chí nhiều nơi chỉ tổ chức thi 2 môn, và nơi nhiều nhất là 5 môn. Hai môn thi luôn được chọn là Toán và Tiếng Anh/Đọc hiểu (reading); những môn khác có thể xuất hiện trong các kỳ thi tốt nghiệp ở các bang gồm có môn Viết luận (writing), Khoa học (science), và Xã hội (social studies).

Việc tích hợp các môn tự nhiên (vật lý, hóa học, sinh học) thành môn Khoa học và các môn xã hội (lịch sử, địa lý, công dân, vv) thành môn Xã hội cho phép ta đánh giá năng lực tư duy, sáng tạo và giải quyết vấn đề của học sinh, chứ không buộc học sinh phải nhồi nhét kiến thức vào đầu để trả thuộc lòng như một con vẹt.
Một kỳ thi nghe qua rất nhẹ nhàng như vậy, nhưng tỷ lệ đạt tốt nghiệp của học sinh Mỹ cũng lại là một điều đáng ngạc nhiên và cần học hỏi đối với Việt Nam. Theo báo cáo của CEP, tỷ lệ đạt tốt nghiệp ngay lần thi đầu tiên xét theo từng môn thi ở tất cả các tiểu bang có biên độ dao động khá lớn,  khoảng từ 50% đến trên  90%, trong đó đa số rơi vào khoảng 70-80%. Các thí sinh không đạt có thể thi lại trong đợt thi kế tiếp, hoặc cũng có thể chọn một cách khác để hoàn tất, ví dụ như nộp điểm của một kỳ thi khác như SAT, ACT, hoặc nếu thi mãi mà vẫn không đạt thì có thể nhận Chứng chỉ hoàn tất bậc trung học (không hoàn toàn tương đương với Bằng tốt nghiệp).

Những thông tin về cách tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT tại Mỹ cho thấy đây thực sự là một kỳ thi nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc và có giá trị, đánh giá được năng lực thật của người học, đồng thời cung cấp được những thông tin cần thiết cho giáo viên, cho nhà trường, và cho các nhà chính sách để cải thiện hệ thống theo những mục tiêu mong muốn.

Còn Việt Nam?
Việc cải cách các kỳ thi tốt nghiệp THPT  và tuyển sinh đại học tại Việt Nam thực ra đã được đặt ra từ khá lâu, ngay từ thời Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân vẫn còn đang là Bộ trưởng giáo dục. Một đề án đổi mới cách thi đã được soạn thảo khá chi tiết với một quan điểm tiến bộ, và kỳ thi được đề xuất khi ấy có những điểm khá gần với những gì mới được mô tả ở trên về kỳ thi tốt nghiệp ở Mỹ. Tuy nhiên, đề án lúc ấy vẫn cứ nhắm vào việc “cải cách tuyển sinh”, vốn  là chuyện của các trường đại học mà Bộ nên trao thêm quyền tự chủ, mà quên rằng công việc mà Bộ Giáo dục cần phải thực chú trọng là cải cách kỳ thi tốt nghiệp THPT để đưa nền giáo dục phổ thông của Việt Nam vào đúng hướng. Sự nhầm lẫn mục tiêu của thời ấy ấy thực ra không lạ, vì, theo nhận định của Ngân hàng thế giới, đánh giá giáo dục (gồm nhiều hoạt động, trong đó có các kỳ thi) vẫn đang là một điểm yếu trong hệ thống giáo dục của các nước đang phát triển như Việt Nam.

May mắn thay, giờ đây với đề án “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo” vừa được hội nghị trung ương thông qua, chúng ta đã xác định được vấn đề cốt lõi cần quan tâm của giáo dục Việt Nam trong những năm tới. Con đường đã vạch ra, chỉ cần thực hiện, nhưng biến từ mục tiêu sang hiện thực không bao giờ là một điều dễ dàng. Học hỏi kinh nghiệm của các nước đã đi trước luôn là điều cần thiết để tránh cho chúng ta những cái giá quá đắt của việc phải rút ra bài học từ những sai lầm của chính mình.

Tuesday, November 19, 2013

Du học, những điều nên biết

Bài này tôi viết theo sự đặt hàng về đề tài của báo Nhân Dân, đã được PV bổ sung thêm ý và đăng trên báo cuối tuần qua, với bút hiệu Anh Khuê (tên con gái) và tên của PV xử lý bài. Các bạn có thể đọc bài đã xử lý ở đây: http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/chuyen-de/item/21645702-doi-hoi-tu-thuc-te.html. Còn dưới đây là bài gốc mà tôi đã gửi. Các bạn đọc cho biết nhé.
----------------


Du học, những điều cần biết[1]
Du học, nhu cầu của thời đại
Đã trở thành thông lệ, trong vòng một thập niên trở lại đây mùa tuyển sinh của trường đại học của Việt Nam cũng đồng thời là mùa hoạt động của các trung tâm du học và mùa hội thảo thông tin giới thiệu chương trình đào tạo của các trường đại học quốc tế. Với số dân gần cả trăm triệu người, lại là một nước có dân số trẻ và truyền thống sẵn sàng đầu tư tối đa cho việc học, Việt Nam đang được tất cả các nước xuất khẩu giáo dục đại học hàng đầu như Mỹ, Úc, Anh vv quan tâm với tư cách là một thị trường quan trọng. 

Có thể kể một vài con số ấn tượng. Theo báo cáo của Viện Giáo dục Quốc tế (Mỹ), năm 2012 Việt Nam có vị trí thứ 8 trên toàn thế giới trong số những quốc gia có số lượng sinh viên du học tại Mỹ đông nhất, và là quốc gia có vị trí thứ 5 nếu tính riêng khu vực Đông Á, chỉ sau những quốc gia rất đông dân như Trung Quốc, hoặc có thu cập cao hơn Việt Nam rất nhiều lần Hàn Quốc, Đài Loan, và Nhật Bản[2]. Một báo cáo khác của tổ chức WENR (Mỹ) cho thấy số lượng sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ đã tăng liên tục trong những năm qua, từ khoảng 4,500 sinh viên vào năm 2006 đến 15,500 vào năm 2012, tức tăng hơn 300% trong vòng 7 năm[3]. Nhưng Mỹ không phải là điểm đến duy nhất của sinh viên Việt Nam, cũng chưa phải là nơi có số lượng du học sinh nhiều nhất. Theo số liệu thống kê của Cục Đào tạo với nước ngoài thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2012 có đến trên 100,000 du học sinh đang học ở nước ngoài, trong đó ba nước có số lượng cao nhất là Australia (gần 25%), Hoa Kỳ (16%), và Trung Quốc (13%). 

Thực ra, sự gia tăng nhu cầu du học trong thời gian không chỉ có ở riêng Việt Nam, cũng không phải chỉ có ở các nước kém phát triển như Việt Nam, mà là một xu hướng mới của toàn thế giới trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay. Ngay cả sinh viên các nước phát triển như Mỹ và châu Âu ngày nay cũng có nhu cầu học tập ở một đất nước bên ngoài biên giới quốc gia của mình, vì điều này sẽ mang lại cho họ những trải nghiệm quốc tế rất cần thiết trong môi trường làm việc của một kinh tế toàn cầu.  Tuy nhiên, đối với du học sinh từ các nước đang phát triển như Việt Nam thì cái những lợi của việc du học còn nhiều hơn gấp bội. Trước hết, nền giáo dục đại học của các nước tiên tiến có chất lượng tốt hơn nhiều so với giáo dục đại học của Việt Nam. Người học không chỉ được tiếp cận với những kiến thức cập nhật nhất, được học hành trong những điều kiện tốt nhất về sách vở tài liệu, phòng thí nghiệm và trang thiết bị tối tân, mà còn được có cơ hội học và sử dụng thành thạo một ngoại ngữ (ngôn ngữ của quốc gia mà họ chọn để theo học), được tiếp xúc và tương tác với các nhà khoa học hàng đầu, được giao lưu với bạn bè từ khắp nơi trên thế giới, và được trải nghiệm một nền văn hóa mới, một cuộc sống ở một thế giới văn minh hiện đại. 

Có thể nói, thời gian 4, 5 năm học đại học ở một nước tiên tiến là một cơ hội hiếm có đối với một học sinh vừa tốt nghiệp trung học phổ thông, tạo ra những tác động hết sức quan trọng đối với sự phát triển tính cách và trí tuệ của một sinh viên, thậm chí gần như đã biến đổi họ thành một con người khác, tự tin hơn năng động hơn, và tất nhiên, có trình độ chuyên môn vững vàng hơn. Không có gì lạ nếu các nhà tuyển dụng, mà đặc biệt là các công ty đa quốc gia, thường dành ưu tiên trong tuyển dụng cho các ứng viên như vậy. 

Không chỉ có hoa hồng
Với những cái lợi vừa nêu, không lạ gì nếu ngày càng có nhiều người Việt Nam ôm mộng du học, cho dù có phải trả toàn bộ chi phí. Cũng theo số liệu của Cục Đào tạo với nước ngoài, trong số trên 100,000 người Việt Nam đang đi du học trên khắp thế thì tuyệt đại đa số là du học tự túc, do cá nhân tự trang trải chi phí. Và cần phải nhấn mạnh rằng đây là một sự đầu tư vô cùng lớn. Chỉ riêng học phí cho một năm học ở Mỹ hoặc Úc – chưa kể chi phí ăn ở và sinh hoạt – không thể tính dưới con số 20,000 đô la, có nghĩa là học phí cho một tấm bằng đại học lên đến cả trăm ngàn đô. Nhưng điều đáng buồn là mặc dù bỏ ra số tiền lớn như vậy nhưng không phải ai cũng thành công trong cuộc đầu tư này. 

Cho đến nay chưa có một thống kê cụ thể nào để có thể nói chính xác về tỷ lệ thất bại hoặc rủi ro của các du học sinh, nhưng những câu chuyện chia sẻ trong cộng đồng hoặc được đưa trên báo chí cho thấy con đường du học không phải là trải đầy hoa hồng. Đã có những trường hợp xôi hỏng bỏng không, bỏ tiền bạc và thời gian ra để đi học mất vài năm mà cuối cùng không thể nào học xong để lấy được tấm bằng đành phải trở về nhà tay trắng, vì sinh không đủ sức – cả ngoại ngữ lẫn chuyên môn – để theo đuổi ngành mình đã chọn. Nhẹ hơn là phải kéo dài thời gian học hơn dự tính, đồng nghĩa với việc phải tốn kém thêm tiền bạc và thời gian, dẫn đến việc gia đình phải vay nợ để trả tiền học cho con em mình, nếu không muốn phải bỏ dở việc học do chưa học xong mà tiền đã hết.   

Một rủi ro thường gặp hơn, đặc biệt là đối với những trường hợp du học sinh hoặc thân nhân không có khả năng tự tìm trường mà phải thông qua các môi giới, đó là phải bỏ ra một số tiền lớn để theo học ở những ngôi trường tầm thường hạng hai, thậm chí cả những trường không hề được thừa nhận ngay tại nước chủ nhà, và chất lượng của chương trình đào tạo thậm chí còn thấp hơn cả những chương trình ở Việt Nam. Khi điều này xảy ra, thì đây không chỉ là một sự lãng phí lớn đối với cá nhân người học và gia đình, mà còn là sự chảy máu ngoại tệ đối với quốc gia, khi nguồn ngoại tệ trong dân bị thất thoát ra ngoài chỉ để mua những món hàng dỏm không sử dụng được. 

Ngoài những rủi ro về việc học tập, du học sinh cũng có thể gặp những rủi ro khác như những va chạm với những người xung quanh vì xung đột văn hóa, cảm thấy cô đơn, thậm chí trầm cảm, và trong tâm trạng ấy đôi khi có những hành động dại dột mà không kiềm chế được. Còn nhớ, cách đây vài năm, dư luận đã một phen xôn xao khi nghe tin về trường hợp du học sinh Việt Nam treo cổ tự tử trong nhà trọ ở bên Mỹ. Tất nhiên, đây là một trường hợp vô cùng ngoại lệ, nhưng những khó khăn về tâm lý của du học sinh khi phải ở một mình ở nước ngoài cũng là điều cần phải xét đến khi ta đang lên kế hoạch cho con em của mình đi du học.

Chuẩn bị tốt, tránh rủi ro
Như đã nói ở trên, quyết định đi du học là một đầu tư rất lớn của cá nhân và gia đình cho tương lai của người học, một đầu tư tính bằng tiền tỷ. Nếu đó là một đầu tư để làm ăn thì chắc chắn ta sẽ phải có bước chuẩn bị, phải xem xét mọi thông tin, phải cân nhắc, đắn đo, xem xét kỹ lưỡng mọi mặt trước khi thực hiện.  Giấc mơ du học – giấc mơ chính đáng của rất nhiều người trẻ và gia đình hiện nay – cũng đòi hỏi một sự đầu tư tương tự nếu chúng ta không muốn biến giấc mơ ấy thành một cơn ác mộng. 

Không chỉ chuẩn bị về tiền – dù đây vẫn là điều kiện đầu tiên mà chúng ta phải xem xét đến – mà còn là thông tin về trường đại học mình sẽ chọn, năng lực học tập của bản thân, và dự tính về nghề nghiệp trong tương lai. Quan trọng nhất trong quá trình chuẩn bị vẫn là những thông tin chính xác và khách quan chứ không phải những lời “tư vấn” lấy được của các công ty du học thiếu trách nhiệm. Một lời khuyên nhỏ dễ thực hiện: Hãy tận dụng các nguồn thông tin chính thức từ chính phủ các nước, thường được đặt ở một bộ phận thông tin trong các đại sứ quán/lãnh sự quán. Những thông tin này – được tiếp cận từ sớm, khoảng 1, 2 năm trước thời gian quyết định đi du học – sẽ giúp ta lường trước những khó khăn và tránh được những rủi ro đáng tiếc.


[1] Bài viết theo đặt hàng của báo Nhân Dân, viết xong 10/11/2013
[3] http://wenr.wes.org/2013/06/vietnam-trends-in-international-and-domestic-education/