Friday, January 24, 2014

Học sinh Mỹ bê bết trong các kỳ thi quốc tế, thì đã sao (PA dịch)

Bài dịch này tôi đã thực hiện từ lâu, từ lúc VN còn đang xôn xao với kết quả PISA của mình. Dịch và gửi chính thức cho Tia Sáng, nhưng đồng thời cũng phổ biến trên fb và một số kênh khác, nên cũng đã được nhiều người đọc và share. Nay mới nhìn thấy nó xuất hiện (lâu rồi, nhưng tôi không theo dõi thôi) trên Tia Sáng online nên tôi đem về đây lưu cho chính mình. Enjoy các bạn nhé, bài viết rất thú vị!

Link chính thức trên TS đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=7075------------------

10:03-19/12/2013 
Học sinh Mỹ bê bết trong các kỳ thi quốc tế, thì đã sao?
Jordan Weissmann

Học sinh Mỹ bê bết môn Toán, đạt trung bình
môn Đọc hiểu và Khoa học trong kỳ thi PISA
Kết quả của một kỳ thi quốc tế quan trọng với tên PISA1 vừa được công bố, và học sinh Mỹ một lần nữa lại làm bài chẳng ra làm sao: Học sinh tuổi 15 của chúng ta bê bết môn Toán, đạt trung bình môn Đọc hiểu và Khoa học, và nhìn chung các em hoàn toàn bại trận trước những người đồng lứa từ những vùng như Thượng Hải, Nhật, Hàn Quốc, Phần Lan.
Dường như đã là một truyền thống của nước Mỹ. Ngay từ thập niên 1960, học sinh Mỹ thường xếp hạng áp chót ở hầu hết các phần của bài thi trong Nghiên cứu về môn Toán quốc tế lần thứ nhất (FIMS). Trong báo cáo có tựa đề “Đất nước lâm nguy” (A Nation at Risk), Ủy ban đặc trách giáo dục của Nhà trắng thậm chí đã tuyên bố kết quả học tập của học sinh Mỹ như vậy đã trở thành một mối đe dọa đến sự thịnh vượng về kinh tế và an ninh của đất nước.

Báo cáo đó được viết từ năm 1983, và trong suốt mấy chục năm qua chúng ta vẫn kém cỏi trong các kỳ thi. Nhưng mức phát triển của chúng ta chưa bao giờ thua các nước phát triển khác. Vậy thì tại sao bây giờ lại phải lo lắng? Đầu óc được xem là kém cỏi của người Mỹ vẫn xoay sở sao đó để phát minh ra được Internet. Và coi kìa, dù người Mỹ vốn be bét trong môn Toán ở phổ thông, nhưng những thiên tài toán học của chúng ta ở Phố Wall vẫn có thể suýt làm cả thế giới sập tiệm vì các mô hình quản trị rủi ro rất thuyết phục trên giấy mặc dù sai bét trên thực tế.

Có một câu trả lời đến từ ông Eric Hanushek, một nhà kinh tế học giáo dục và một là người ủng hộ cải cách nhà trường phổ thông từ Học viện Hoover, một đơn vị có tư tưởng bảo thủ thuộc ĐH Stanford (bạn có thể cũng đã nghe tên ông với tập tài liệu có tựa là “Chờ đợi Siêu nhân” (Waiting for Superman). Ông và các đồng sự đưa ra lập luận rằng điểm thi có thể giúp tiên đoán sự tăng trưởng kinh tế, vì các quốc gia thông minh hơn cũng là những quốc gia có nhiều phát minh và nền sản xuất tốt hơn, và có thể thu hút được đầu tư nước ngoài nhiều hơn. Nếu có thể tăng điểm thi của mình lên cho bằng với mức của Canada, ví dụ thế, thì Mỹ có thể tăng thêm 77 ngàn tỷ USD cho nền kinh tế của họ trong vòng 80 năm tới. 

Dựa trên một cuộc nghiên cứu (nay đã được xuất bản thành một cuốn sách) so sánh điểm thi và sự tăng trưởng của 50 quốc gia từ năm 1960 đến năm 2009, Hanushek và các cộng sự của ông lập luận, nước Mỹ đã tăng trưởng cao hơn dự đoán nếu xét theo điểm thi của học sinh mình. Nhưng ông cho rằng cơ hội này có lẽ sắp không còn nữa bởi vì mức tăng trưởng này phản ánh những lợi thế mang tính lịch sử mà nước Mỹ đã có được lâu nay. Kinh tế Mỹ được xây dựng dựa trên các thị trường mở, quyền tư hữu vững chắc và mức thuế nhìn chung là dễ chịu; một hệ thống giáo dục đại học thuộc hàng nhất thế giới; và chính sách nhập cư cởi mở cho phép những người có trình độ cao vào làm việc. Nhưng những lợi điểm trên đang giảm đi vì các quốc gia khác hiện cũng đang áp dụng những thể chế và phương pháp tương tự như Mỹ. Nói cách khác, giờ đây khi Trung Quốc đã trở thành một nền kinh tế thị trường, thì chúng ta có thể dự đoán rằng những nơi như Thượng Hải sẽ giành mất phần ăn của chúng ta. 

Nhưng có đúng thế không nhỉ? Như tác giả Rebecca Strauss thuộc Hội đồng quan hệ quốc tế đã nêu hồi đầu năm nay, mối liên hệ giữa điểm thi toán và khoa học với sức mạnh của nguồn nhân lực dường như không được rõ ràng cho lắm.

Ở Trung Quốc, người ta đang ngày càng ý thức hơn về “tình trạng điểm thi cao, năng lực thấp” của nguồn nhân lực, với những con người khi ra đời làm việc không thể nào phát triển được, nhưng lại có điểm thi đầu vào đại học (gọi là kỳ thi Cao khảo) rất cao, và điểm học tập trong quá trình ở đại học cũng rất tốt. 

Mối liên hệ giữa điểm thi môn Toán và những đặc điểm nhân lực cần có của một đất nước sáng tạo thì lại càng mơ hồ hơn nữa. Xin hãy tạm gác Thung lũng Silicon và nước Mỹ sang một bên. Thay vào đó, chúng ta thử xét trường hợp Israel, một quốc gia khác có điểm thi chỉ ở hạng thường thường bậc trung nhưng lại là một trung tâm khởi nghiệp và sản xuất phần mềm đáng kể, nơi nhận được mức vốn đầu tư tính theo tỷ lệ GDP cao hơn bất cứ quốc gia khác nào trên thế giới.

Hoặc thử xét điện thoại thông minh. Hãng Apple rõ ràng đã thành công vì biết kết hợp công nghệ với sự phán đoán hợp lý về nghệ thuật của Steve Jobs. Hãng Nokia, đơn vị có tỷ lệ đóng góp chiếm đến một phần tư sự tăng trưởng của Phần Lan trong thập niên từ 1998 đến 2007, đã bán những chiếc điện thoại thời trang được thiết kế bởi một thanh niên người California là Frank Nuovo (nhân tiện, anh chàng này hồi còn tuổi học sinh chỉ suốt ngày gõ trống trong một ban nhạc Jazz Fusion, chứ chẳng hề bỏ thời gian học hành thi cử gì cả).

Có người thậm chí còn cho rằng quá nhấn mạnh thi cử có thể sẽ gây hại cho sự phát triển kinh tế. Sau khi phát hiện ra rằng điểm thi Toán trong kỳ thi FIMS năm 1964 có tương quan nghịch với mức độ tăng trưởng kinh tế, ông Keith Baker, nguyên là nghiên cứu viên của Bộ Giáo dục, đã viết:

Trong số các quốc gia đạt điểm cao, một trình độ học vấn nào đấy – như được phản ánh qua điểm thi – đúng là cần thiết để tạo thành một bệ phóng cho sự thành công của đất nước. Nhưng một khi đã vượt qua ngưỡng ấy thì những yếu tố khác sẽ trở nên quan trọng hơn là tiếp tục cố gắng tăng điểm thi. Thực vậy, một khi đã đạt đến ngưỡng đó rồi, nếu vẫn cứ cố gắng tăng điểm số thì đó là một chính sách sai lầm bởi vì điều này sẽ làm phân tán mối quan tâm, nỗ lực, và nguồn lực mà lẽ ra cần được tập trung vào những yếu tố quan trọng hơn cho sự thành công của một quốc gia.

Lịch sử gần đây của Nhật cũng khiến ta thêm nghi ngờ về giả thuyết rằng có mối liên hệ giữa điểm thi và số phận của mỗi quốc gia. Đã từng là nỗi ám ảnh về kinh tế của nước Mỹ trong thập niên 1990, trong hai thập niên gần đây nền kinh tế của quốc gia này đã trở nên trì trệ, do những sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô, mặc dù hệ thống giáo dục của nước Nhật được cả thế giới ca ngợi đã tạo ra những học sinh có kết quả thi rất tốt.

Tất cả những điểm nêu trên không có nghĩa là chúng ta nên vứt bỏ những kỳ thi như PISA. Nó chỉ ra những vấn đề nghiêm trọng của nền giáo dục của chúng ta, như sự cách biệt về kết quả giữa học sinh giàu và nghèo, hoặc thái độ dửng dưng đối với môn Toán của cả nước. Như GS Martin Carnoy thuộc ĐH Stanford, một người phê phán quan điểm của Hanushek, đã phát biểu: “Điểm thi chắc chắn liên quan đến nguồn vốn nhân lực của một quốc gia.”

Nhưng, ông cũng nói thêm, điểm thi thấp không có nghĩa là không còn hy vọng về tăng trưởng kinh tế. Và điều này sẽ làm cho bọn đần độn người Mỹ chúng ta có thể an lòng đôi chút. 

           Phương Anh dịch

----

1 Programme for International Student Assessment (Chương trình đánh giá học sinh quốc tế)

Thursday, January 23, 2014

"Để bay lên, trên đôi cánh của ước mơ ..." (Về các trường đại học NCL của VN)

Bài này tôi viết cho số Tất Niên của Tia Sáng, về các trường đại học ngoài công lập. Nay đã đăng lên rồi, nên đưa lên đây để lưu và để chia sẻ với bạn bè. 

Nhân tiện, khi tôi gửi bài viết này cho một người bạn đồng nghiệp (đàn anh) ở một trường công lập thì người ấy không đồng ý với tôi nhiều điều. Nói vắn tắt, người bạn ấy vẫn không tin rằng trường ngoài công lập lại có thể có gì tốt hơn công lập được, hu hu.

Thực ra, tôi có nhiều chứng cứ về những cái tốt của trường NCL lắm đấy, và tất cả những gì tôi viết ở đây đều có tên trường cụ thể, nhưng không thể nêu ra thôi. Vì tôi sợ đưa tên trường này mà không đưa tên trường khác thì thành ra thiên vị, dù không cố ý. Ai có thắc mắc thì cứ gửi comment, tôi sẽ trả  lời.

Các bạn đọc bài dưới đây nhé. Link trên Tia Sáng đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=113&CategoryID=6&News=7172

--------------
10:16-23/01/2014
Để bay lên, trên đôi cánh của ước mơ…

Vũ Thị Phương Anh


Nói đến mùa Xuân, người ta thường nhắc đến những ước mơ. Một ước mơ của ngành giáo dục đã tồn tại nhiều năm nhưng vẫn chưa hề cũ, đó là: Làm cách nào để đưa giáo dục đại học của Việt Nam cất cánh. Đây là một điều kiện tối cần thiết để nhanh chóng đưa đất nước tiến lên trong một nền kinh tế tri thức toàn cầu, trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng và cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Lại nhớ một hình ảnh đã được các chuyên gia trong nước hơn một lần nhắc đến: Nền giáo dục đại học của một quốc gia giống như đôi cánh chim, công và tư phải song hành mới có thể bay lên. Quả thật, nhìn vào nền giáo dục đại học của các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan1, Philippines, Malaysia, hoặc Singapore, có thể thấy tư nhân hóa đang là một xu thế quan trọng và không thể đảo ngược. Cũng theo xu thế này, những đại học ngoài công lập Việt Nam đã được phép ra đời từ cách đây hơn hai thập niên; tuy nhiên, vì một lý do nào đó cho đến nay gánh nặng về đào tạo nghề nghiệp sau trung học cho thế hệ trẻ vẫn dồn hầu hết vào khối trường công lập, trong khi với đóng góp khiêm tốn từ người học qua học phí, giáo dục đại học của Việt Nam không thể đáp ứng nổi đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế, và hiện đang trong tình trạng “hụt hơi”.

Giáo dục đại học tư nhân của Việt Nam quá yếu kém? Những thông tin mà ta có thể đọc được trên báo chí dường như khẳng định điều này. Hình ảnh được vẽ lên cho ta cảm giác đây là những trường có cơ sở vật chất tồi tàn, giáo viên và chương trình thì vay mượn từ trường công lập, học phí cao mà chất lượng lại thấp, còn sinh viên ra trường thì không phải ai cũng kiếm được việc làm. Những trường này tất nhiên tuyển sinh rất khó khăn; chính vì vậy mà các trường ngoài công lập lúc nào cũng đòi tự chủ tuyển sinh -- thực chất là muốn bỏ kỳ thi tuyển sinh, tháo nút chặn điểm sàn, hạ chất lượng đầu vào để có thêm nguồn tuyển, vì nếu không thì chỉ còn nước đóng cửa (!). Một bức tranh thật ảm đạm và xấu xí.

 Vậy thực tế thì sao? Trước hết, phải thừa nhận rằng quả là có những trường đại học, cao đẳng kém, cả công lập lẫn ngoài công lập. Và có lẽ cũng phải thừa nhận tình trạng là so với các trường công lập thì tỷ lệ các trường ngoài công lập không đủ giảng viên biên chế theo quy định có lẽ cao hơn. Nhưng cũng có một sự thật khác về các trường ngoài công lập mà hầu như báo chí chưa bao giờ nhắc đến, đó là: có rất nhiều sáng kiến mang tính đổi mới trong quản lý và đào tạo trong giáo dục đại học ở Việt Nam lại xuất phát từ các trường ngoài công lập chứ không phải là từ khối công lập. Đó là chưa kể, thỉnh thoảng trong một vài lĩnh vực, sinh viên các trường ngoài công lập lại đạt được những thành tích ngoạn mục, thậm chí vượt qua sinh viên các trường công lập vốn có đầu vào cao hơn hẳn mình, như việc giải thưởng của kỳ thi ROBOCON gần đây có thời gian dài lọt vào tay sinh viên một trường ngoài công lập trẻ tuổi ở một tỉnh miền Đông Nam Bộ chẳng hạn.

 Có thể nêu ra nhiều ví dụ về sự tự chủ, năng động và sáng tạo của các trường ngoài công lập trong suốt thời gian tồn tại của khối trường này: Cách đây gần một thập niên, khi việc thu thập ý kiến sinh viên về hoạt động giảng dạy của giảng viên còn rất xa lạ ở Việt Nam thì nó đã được nhiều trường ngoài công lập áp dụng như một biện pháp hiệu quả để kiểm soát chất lượng của hoạt động giảng dạy.2 Từ rất lâu trước khi có những quy định về trình độ ngoại ngữ cho giảng viên và sinh viên theo chuẩn châu Âu như hiện nay, một số trường tư ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra những tiêu chuẩn khá nghiêm nhặt về trình độ ngoại ngữ khi tốt nghiệp nhằm giúp sinh viên có một trình độ ngoại ngữ vững vàng khi ra trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập của đất nước.

Gần đây, trước nạn đạo văn hoành hành trong giáo dục của Việt Nam, trường đại học đầu tiên dám bỏ tiền ra mua và sử dụng phần mềm chống đạo văn để ngăn ngừa sự gian lận cũng là một trường tư ở TP Hồ Chí Minh và hẳn chẳng ai ngờ rằng cách đây vài năm khi công tác kiểm định chất lượng vẫn trong tình trạng tạm “đóng băng”, một số trường ngoài công lập ở phía Nam đã chủ động tìm kiếm nguồn tài trợ của quốc tế và tổ chức các đoàn đánh giá ngoài để giúp nhau tự rà soát và cải thiện. Tính tự chủ, năng động đó trong mấy năm gần đây đã được sự thừa nhận công bằng và khách quan của một tổ chức quốc tế - tỷ lệ các trường đại học ngoài công lập có mặt trong bảng xếp hạng Webometrics không hề thua kém các trường công lập.

Sẽ có người nhắc đến những vụ lùm xùm gần đây của các trường ngoài công lập, trong đó nổi cộm nhất là vụ giằng co trong việc chuyển cơ sở tại trường ĐH Hùng Vương mới tháng trước. Tuy nhiên, như nhiều chuyên gia đã hơn một lần chỉ ra, căn nguyên của những tranh chấp này và nhiều điều bất cập khác nữa lại chính là do sự thiếu quan tâm của nhà nước về mặt chính sách đối với các trường ngoài công lập, hơn là những khiếm khuyết nội tại của mô hình trường ngoài công lập, khiến cho khối trường này sau vài thập niên tồn tại vẫn chưa thể phát triển xứng đáng với tiềm năng mà nó vốn có.3

Và như vậy, nên chăng ước mơ của ngành giáo dục Việt Nam cho năm 2014 này là làm sao nhanh chóng có được một hệ thống những chính sách công bằng và phù hợp với đặc thù của khối trường ngoài công lập. Để nền giáo dục của Việt Nam sẽ là không còn là một chú chim muốn bay với chỉ một bên cánh.

Để bay lên, trên đôi cánh của ước mơ …

----
1Ví dụ, theo thống kê năm 2006, số trường đại học tư của Thái Lan chiếm đến 45% tổng số trường đại học của nước này. http://www.albany.edu/dept/eaps/prophe/ publication/paper/PROPHEWP12_files/PROPHEWP12_PP.pdf

2http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2009-12-25-sinh-vien-danh-gia-giang-vien-phu-hop-hay-khong-

3http://thanhnien.hnue.edu.vn/?p=321