Saturday, March 5, 2011

"Tám biện pháp cải thiện nền đại học Mỹ" (bản đầy đủ) (2)

4. Cải cách chương trình cốt lõi

Một điểm tự hào khác của nền giáo dục Mỹ là chương trình đào tạo dựa trên một nền kiến thức rộng (mà ở trên ta đã đề cập đến dưới tên gọi là giáo dục khai phóng). Tất cả sinh viên Mỹ dù học ngành nào đều có chung một nền tảng kiến thức kinh điển tương tự nhau: Plato, Shakespeare, Darwin, tiếng La Tinh hoặc tiếng Hy Lạp, vv. Những người ủng hộ cách xây dựng chương trình như trên đã đưa ra lập luận rằng một trong những sứ mạng quan trọng của trường đại học là truyền lại cho thế sau những di sản tinh thần của nhân loại.

Những người ủng hộ cải cách lại cho rằng điều quan trọng không phải là cung cấp cho sinh viên những kiến thức kinh điển vốn ít đóng góp trực tiếp vào nhu cầu sử dụng hàng ngày và lại đầy ra trong sách vở, tài liệu, mạng Internet, mà là cung cấp cho họ những kỹ năng thiết yếu trong cuộc sống, ví dụ như kỹ năng tư duy phê phán chẳng hạn. Vì nếu không cải cách theo hướng này thì các trường đại học sẽ tạo ra những con người có thể biết rất nhiều nhưng chẳng làm được điều gì ra hồn cả.

5. Tăng cường giao bài tập về nhà

Nếu so với thời gian cách đây nửa thế kỷ thì thời gian học tập tại nhà của sinh viên đại học Mỹ đã giảm đi một cách đáng kể, từ 25 giờ một tuần xuống còn khoảng 15 giờ một tuần, Daniel de Vise đã ghi nhận như trên trong bài viết của mình. Tuy vậy, trong khi thời gian học tập giảm đi thì sinh viên ngày nay lại đạt điểm số trung bình cao hơn các cụ sinh viên cách đây 50 năm, từ mức 2.5 trên 4 tức ngay mức trung bình khá (giữa C và B) lên thành mức 3.0 trên 4 tức mức khá.

Những số liệu này phải chăng cho thấy sinh viên Mỹ ngày nay thông minh hơn và học hành có hiệu quả hơn cách đây nửa thế kỷ? Hay ngược lại, nó cho thấy các trường đại học Mỹ đang trở nên dễ dãi hơn rất nhiều đối với các sinh viên của mình? Các nhà nghiên cứu giáo dục Mỹ thiên về cách diễn giải thứ hai. Xin nhắc lại kết quả của cuộc khảo sát sử dụng bài trắc nghiệm CLA đã đề cập ở trên. Cuộc khảo sát này cho thấy có đến 36% sinh viên tốt nghiệp không học được thêm một chút gì trong suốt thời gian học đại học. Nếu kết nối thông tin này với những số liệu đã nêu đoạn trên thì có thể thấy ngay sự dễ dãi của các trường đại học là nguyên nhân chính làm giảm sút chất lượng học tập của sinh viên Mỹ.

Tại sao các trường đại học Mỹ ngày nay lại trở nên dễ dãi đối với sinh viên hơn trước đây? Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu trung có hai nguyên nhân nổi bật. Trước hết là quan niệm xem sinh viên là những khách hàng và nhà trường cần chiều chuộng hơn là cần kèm cặp, hướng dẫn, rèn luyện để giáo dục họ trở thành những con người theo những mục tiêu giáo dục đã định. Với tư cách là“thượng đế” trong trường đại học, sinh viên có quyền đưa ý kiến về mức độ hài lòng của mình sau mỗi môn học, và những ý kiến này được sử dụng để đánh giá giảng viên. Trong tình hình đó, các giảng viên sẽ trở nên dễ dãi với sinh viên, tránh đưa ra những yêu cầu quá cao kèm hoặc những đòi hỏi khắt khe trong việc chuẩn bị bài vở ở nhà, vì điều này chỉ làm cho các thượng đế kém hài lòng về mình mà thôi.

Một nguyên nhân khác là chính sách quá nhấn mạnh thành tích nghiên cứu mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy trong đánh giá giảng viên. Bài báo của Daniel de Vise trích lời một giảng viên giải thích tại sao ông ít giao các bài tập về nhà. Rất đơn giản: nếu giao nhiều bài tập cho sinh viên thì sẽ phải mất nhiều thời gian để chấm. Trong khi đó, cuộc chạy đua giành thành tích nghiên cứu để khẳng định vị trí trong các trường đại học thật nghiệt ngã. Như vậy, lựa chọn của giảng viên sẽ nghiêng về đâu là điều mà ai cũng có thể đoán được. Và hậu quả của điều này ra sao thì đã rõ.

Thêm một nhận định lạc đề khác ở đây: Phải chăng xu hướng dễ dãi với sinh viên cũng đang tồn tại rất rõ nét tại Việt Nam, dù có thể do những nguyên nhân không giống với các nguyên nhân vừa nêu trong giáo dục của Mỹ?

6. Gắn việc cấp kinh phí với tỷ lệ tốt nghiệp

Như đã nêu, vị trí hàng đầu của giáo dục đại học Mỹ hiện nay vẫn đang được cả thế giới thừa nhận. Thế nhưng một loạt các kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy giáo dục đại học Mỹ không phải là hoàn toàn không có đối thủ. Xét trên một số khía cạnh thì thậm chí nền đại học Mỹ đã bộc lộ những nhược điểm khá trầm trọng và bị đang một số đối thủ tiềm năng vượt khá xa.

Một trong những nhược điểm ấy là tỷ lệ tốt nghiệp đại học của dân Mỹ chưa cao so với những nước công nghiệp phát triển khác. Một nghiên cứu của tổ chức College Board năm 2010 cho thấy nước Mỹ chỉ đứng hạng thứ 12 trên tổng số 36 quốc gia công nghiệp phát triển được khảo sát, với tỷ lệ là 40% thanh niên có một bằng cấp sau trung trung học (tối thiểu là bằng cao đẳng cộng đồng 2 năm), so với tỷ lệ 56% của Canada. Đáng lo ngại hơn nữa là sự chênh lệch rất lớn về tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn (tức không quá 6 năm kể từ ngày bắt đầu học) khi so sánh giữa các nhóm xã hội khác nhau tại Mỹ. Tỷ lệ này ở người da trắng là 60%, người gốc Mỹ Latin là 49%, còn người da đen chỉ được 40%. Tỷ lệ bình quân quốc gia cũng chỉ đạt 57%, có nghĩa là cứ hai sinh viên theo học đại học tại Mỹ thì có gần như có người không hoàn tất đúng hạn.

Việc sinh viên tham gia vào quá trình đào tạo trong một trường đại học nhưng cuối cùng bỏ dở không tốt nghiệp đáng lo ngại vì hai lẽ. Trước hết, đây rõ ràng là một sự lãng phí rất cao cho cả hai phía nhà trường và người học, khi công sức, chi phí và thời gian bỏ ra trong quá trình đào tạo cuối cùng không đem lại kết quả gì hêt. Hơn nữa, điều này cho thấy việc đào tạo của các trường đại học có một khâu nào đó trục trặc. Trên nguyên tắc, sinh viên khi đã được xét tuyển vào một chương trình đại học phải có đủ tiềm năng để hoàn tất chương trình này, và nhà trường phải có một chương trình đào tạo thích hợp, một kế hoạch hướng dẫn tỉ mỉ cũng như những điều kiện hỗ trợ cần thiết để sinh viên hoàn tất chương trình. Một khi số sinh viên đã được nhận vào nhưng sau đó lại không đủ năng lực để hoàn tất thì chỉ có thể hoặc do khâu tuyển sinh quá lỏng lẻo, hoặc do quá trình đào tạo của các trường không hiệu quả.

(còn tiếp kỳ 3)

No comments:

Post a Comment