Wednesday, May 19, 2010

Khủng hoảng giáo dục đại học tại TQ? (kỳ 2)

Bài viết này đã đăng trên Tạp chí Tia Sáng số ra ngày 15/5/2010. Kỳ 1 của bài viết này đã đăng trên blog này cách đây ít lâu. Nó ở đây.

Dưới đây là bản gốc mà tôi đã gửi đi. Bản đăng báo có thể đã được biên tập ít nhiều cho ngắn gọn và phù hợp với phong cách, mục tiêu của tờ báo.

----
Vì sao có thể nói là giáo dục đại học của Trung Quốc đã thất bại trong giấc mơ đẳng cấp quốc tế? Đó là bởi vì cho đến nay, không những Trung Quốc chưa thể lọt vào top 200 của bảng xếp hạng ARWU, mà ngay cả điều kiện cơ bản là có được một đội ngũ các giáo sư, các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh giỏi chuyên môn và có đạo đức học thuật thì Trung Quốc cũng chưa làm được. Ngược lại, tham vọng đẳng cấp quốc tế của giới lãnh đạo chính trị đã gây ra nhiều sức ép lên giới học thuật, cộng với sự lẫn lộn giữa vị trí hành chính và vị thế chuyên môn của các vị nắm quyền quản lý trong các trường đại học, đã tạo ra tình trạng “tham nhũng học thuật” nặng nề và một “thị trường đen học thuật” nhộn nhạo láo nháo với các chợ luận văn, các bài báo ma, công trình giả/dỏm, luận văn mua vv hỗn loạn trong giáo dục đại học Trung Quốc mà hiện nay toàn thế giới đều biết rõ.

Tuy nhiên, đánh giá thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc chỉ thông qua số lượng công bố khoa học trên các tạp chí chuyên ngành, các giải thưởng lớn về khoa học công nghệ, hay sự tồn tại của các trường đại học nghiên cứu có đẳng cấp quốc tế có lẽ là không chính xác. Bởi giáo dục đại học không chỉ nhằm thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ ở đỉnh cao, mà có lẽ quan trọng hơn, là nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự phát triển kinh tế của một quốc gia.

Một quốc gia như Trung Quốc với trên một tỷ dân và một nền kinh tế mới nổi, đang chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, thì trước hết cần có các trường đại học giảng dạy (teaching universities) tốt, còn việc xây dựng các đại học nghiên cứu có tầm cỡ có thể cạnh tranh với Mỹ có thể cũng chưa cần thiết. Cũng vậy, các giảng viên làm việc trong các trường đại học giảng dạy như vậy không nhất thiết phải là những người có nhiều công bố trên các tạp chí khoa học mà đa phần là của các nước tư bản phương Tây, vốn có một truyền thống học thuật rất khác với Trung Quốc.

Như vậy, phải chăng cần tìm hiểu về thành tựu của giáo dục đại học Trung Quốc ở trên một khía cạnh khác, ví dụ như trong việc đào tạo nhân lực cho xã hội? Để đánh giá điều này, dễ nhất là tìm hiểu xem các sinh viên tốt nghiệp từ các đại học của Trung Quốc họ làm gì, ở đâu, và có cuộc sống nghề nghiệp ra sao. Vậy thì đây …

“Tốt nghiệp là thất nghiệp!”
Một câu nói rất mỉa mai cay độc, phải không? Đó là tựa một bài viết đăng ngày 24/3/2010 trên trang mạng youthiawaaz.com , một diễn đàn trực tuyến xuất phát từ Ấn Độ với mục đích kết nối thanh niên trên toàn thế giới. Bài viết mở đầu như sau:

“Trong vòng 5 năm trở lại đây, thật dễ dàng tìm được các mẩu tin và phóng sự về nạn thất nghiệp của thanh niên trên các phương tiện truyền thông Trung Quốc. Vấn nạn thất nghiệp đã trở nên quá quen thuộc với thanh niên Trung Quốc đến nỗi hầu như mọi thanh niên Trung Quốc đều biết đến câu thành ngữ mới này: “tốt nghiệp là thất nghiệp”.

Nạn thất nghiệp trong những người có bằng đại học ở Trung Quốc thực sự tệ như vậy sao, hay đó chỉ là sự tuyên truyền của báo chí Ân Độ về Trung Quốc? Truyền thông chính thống của Trung Quốc nói gì về nạn thất nghiệp này? Dưới đây là những thông tin và số liệu lấy từ các tờ báo chính thống của Trung Quốc:

“Theo tin từ thành phố Đông Quản, một trong những trung tâm sản xuất chính tại tỉnh Giang Tô thuộc vùng châu thổ sông Châu Giang miền Nam Trung Quốc, có đến trên 90% các nhà máy nói rằng họ rất khó khăn trong việc tuyển dụng nhân sự vào 6 tháng cuối năm 2009, khi kinh tế bắt đầu hồi phục và các đơn đặt hàng từ nước ngoài bắt đầu đổ vào Trung Quốc. Việc hoạt động hết công suất dường như đối với các nhà máy của Trung Quốc chỉ còn là một giấc mơ đã xa lắm rồi.”

Mẩu tin trên lấy từ trang web của Trung Hoa Nhật báo bản tiếng Anh (China Daily) ngày 12/1/2010 . Phải chăng tình trạng này là do số lượng sinh viên tốt nghiệp chưa đủ để đáp ứng nhu cầu lớn lao của các khu công nghiệp? Hoàn toàn không phải! Theo bài viết này, tình trạng nói trên phần lớn là do sinh viên tốt nghiệp không phù hợp hoặc không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Một tình trạng thật đáng buồn, được phóng viên tóm tắt trong cái tựa thật “đắt”: “Nỗi đau giáo dục của người đi xin việc”.

Nạn ngụy tạo số liệu báo cáo
Không phải là nhà nước Trung Quốc không quan tâm đến tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp. Trái lại thì đúng hơn. Một mẩu tin gần đây trên China Daily cho biết “Tìm việc làm ở các địa phương cho sinh viên tốt nghiệp là ưu tiên hàng đầu của chính quyền”. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng được đánh giá dựa trên tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành nghề sau một thời gian ngắn, thường từ 6 tháng đến 1 năm. Những biện pháp này cho thấy chính phủ Trung Quốc rất coi trọng nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực của giáo dục đại học để phục vụ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.

Nhưng thật mỉa mai, trước những yêu cầu của chính quyền, thay vì cố gắng thay đổi nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, và các hoạt động hỗ trợ để giúp sinh viên tốt nghiệp dễ dàng tìm được một việc làm phù hợp, thì một số trường đại học của Trung Quốc lại giở trò “gian lận” đã quen trong khi làm khoa học: đưa ra thông tin giả về tình trạng việc làm của cựu sinh viên. Một mẩu tin lấy từ trang web chính thức khác, trang china.org, vào tháng 7/2009 , đã cung cấp thông tin về sự việc này: “Các trường đại học ngụy tạo số liệu về việc làm của sinh viên tốt nghiệp”:

“Trên hồ sơ lưu của trường đại học nơi cậu đã tốt nghiệp, Tiểu Đồng được ghi là đã có việc làm. Nhưng thực ra hiện nay cậu vẫn đang vật vã cố tìm một việc làm tại Bắc Kinh.
“Chỉ có 10 trong số 29 sinh viên tốt nghiệp lớp em đã tìm được việc làm đúng nghĩa,” Tiểu Đồng nói. Cậu tốt nghiệp từ một trường đại học hàng đầu của Trung Quốc. “Nhưng trường em lại khoe khoang với bên ngoài rằng 90% sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm.”


Số liệu về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học của Bộ Nhân lực và An ninh xã hội (Ministry of Human Resources and Social Security) Trung Quốc cho biết tỷ lệ có việc làm của những người tốt nghiệp đại học trong vòng 3 năm qua dao động quanh mức 70%, tức tỷ lệ thất nghiệp lên đến xấp xỉ 30%, một tỷ lệ rất cao so với các nước khác trên thế giới. Đặc biệt, theo tin ngày 18/2/2010 trên China Daily thì tháng 6/2010 năm nay áp lực việc làm sẽ đặc biệt lớn, khi có đến 6.3 triệu sinh viên đại học và cao đẳng sẽ tốt nghiệp, một số lượng cao hơn các năm trước đây . Đây là kết quả của sự phát triển liên tục về số lượng của giáo dục đại học trong hơn 10 năm qua. Thử tưởng tượng, với tỷ lệ 30% thất nghiệp hiện nay, Trung Quốc sắp có thêm một đội quân thất nghiệp có trình độ đại học 2.1 triệu người nữa. Quả là một bài toán khó cho chính phủ Trung Quốc!

Nhưng số phận của những sinh viên tìm được việc làm cũng có vẻ chẳng khấm khá gì hơn bao nhiêu. Kết quả của một cuộc khảo sát vừa được công bố hồi tháng 3/2010, cũng trên trang mạng của Trung Hoa Nhật báo tiếng Anh cho biết:

“ 27% trong số 8,700 cựu sinh viên được khảo sát cho rằng khó khăn lớn nhất hiện nay của họ là không có cơ hội phát triển nghề nghiệp. Mối quan tâm lớn thứ hai của họ là lương; có đến 20% những người được hỏi cho rằng sau khi trừ hết chi phí ăn ở, sinh hoạt thì lương của họ hầu như không còn được một xu nào.”

Áp lực của việc học ở bậc đại học, cùng với viễn cảnh tương lai không mấy sáng sủa khi tốt nghiệp, đã đè nặng lên tâm lý của các sinh viên, đặc biệt là các sinh viên từ tỉnh lẻ lên thành phố ăn học. Tin từ China Daily cuối tháng 3/2010 cho biết một nữ sinh viên ở thành phố Nam Kinh thuộc tỉnh Giang Tô đã treo cổ tự vẫn trong nhà tắm tại ký túc xá, để lại bức thư cho gia đình giải thích về cái chết của mình là do “áp lực quá sức chịu đựng khiến cho cô không thể quyết định sau khi tốt nghiệp sẽ tìm việc làm hay tiếp tục ôn tập để dự kỳ thi tuyển đầu vào sau đại học.”

Những bức tranh ảm đạm vừa nêu, được phác họa lên từ những tin tức và số liệu chính thức trên báo chí chính thống của nhà nước Trung Quốc – gạt sang một bên rất nhiều tin tức ảm đạm khác trên báo chí phương Tây và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới hoặc UNESCO, liệu đã tạm đủ để bước đầu kết luận về sự khủng hoảng, ít ra là tiềm ẩn, của nền giáo dục đại học của Trung Quốc hay chưa?
---
Ghi chú: Bài này tôi dự tính viết xong trong 2 kỳ, nhưng khi viết hơi dài hơn dự kiến, vì cần phải thu thập và nêu đủ chứng cớ cho các lập luận của mình. Vì vậy nó kéo dài ra tới 3 kỳ, tức là còn 1 kỳ nữa. Không hiểu báo Tia Sáng có sẵn sàng đăng kỳ 3 không? Nhưng tôi cũng sẽ viết cho xong, và nếu báo đã chán chủ đề này thì tôi cũng sẽ đăng trên blog này cho đủ ý.

Hẹn các bạn ở kỳ 3!

No comments:

Post a Comment