Saturday, March 22, 2014

Đổi mới mô hình đào tạo giáo viên: Những lựa chọn và bổ sung cần thiết


Bài này tôi viết theo chủ đề đặt hàng của báo Nhân Dân cuối tuần, nay đã được đăng lên trên báo giấy với ít nhiều biên tập. Dưới đây là bản gốc chưa qua biên tập của tôi. Bản online chưa thấy đưa lên, khi nào có tôi sẽ gửi link để mọi người so sánh cho tiện.
------------

Đổi mới mô hình đào tạo giáo viên: Những lựa chọn và bổ sung cần thiết

Chủ trương đổi mới và toàn diện nền giáo dục Việt Nam đang đặt ra cho các trường đại học sư phạm những yêu cầu to lớn. Không kể đến các nhiệm vụ quan trọng khác, nhiệm vụ chính của các trường đại học sư phạm trong thời gian sắp tới vô cùng nặng nề, đó là: cung cấp một thế hệ giáo viên mới đủ năng lực giảng dạy chương trình mới theo các phương pháp hiện đại, đồng thời bồi dưỡng và đào tạo lại những giáo viên hiện nay sao để bắt kịp những yêu cầu của đổi mới. 

Nhiệm vụ nặng nề, khó khăn chồng chất
Nhiệm vụ nặng nề như vậy, nhưng hiện nay các trường sư phạm lại đang có nhiều khó khăn, khi cả đầu vào lẫn đầu ra của các trường này đều có những vướng mắc. Từ nhiều năm nay, nhiều sinh viên sư phạm ra trường đã không thể tìm được việc làm trong ngành giáo dục và phải làm những việc trái ngành. Tình trạng này nghiêm trọng đến nỗi Bộ Giáo dục đã quyết định giảm mạnh chỉ tiêu ngành sư phạm trong đợt tuyển sinh 2014[1].

Đầu ra khó khăn thì đầu vào cũng bị ảnh hưởng. Trong những năm gần đây ngành sư phạm khó thu hút được người giỏi, và ngay cả khi đã chấp nhận đầu vào thấp thì việc tuyển sinh vẫn khó khăn, cho dù nhà nước đã có những chính sách học phí ưu tiên[2].  

Nghiêm trọng hơn là việc các thầy cô giáo bỏ nghề. Từ lâu, giáo viên vẫn được biết đến như một nghề vất vả, thu nhập thấp, lại gò bó, bị ràng buộc bởi các quy định chặt chẽ, và bù đầu trong những công việc hành chính nhàm chán.  Vì vậy, nhiều giáo viên chỉ sau vài năm đứng lớp đã bỏ nghề, đặc biệt những là giáo viên giỏi, khiến nhân lực ngành sư phạm vừa thừa vừa thiếu: thừa sinh viên tốt nghiệp, thiếu chỗ làm; thừa giáo viên trẻ thiếu kinh nghiệm, thiếu những giáo viên kỳ cựu; thừa giáo viên kém năng lực, thiếu giáo viên giỏi.

Cần đổi mới, nhưng chưa có sự đồng thuận
Các trường sư phạm khó có thể thực hiện thành công nhiệm vụ của mình nếu những khó khăn nêu trên không thể vượt qua và các trường này vẫn tiếp tục vận hành theo lối cũ. Đây là lý do tại sao vấn đề đổi mới mô hình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên trên cả nước đã được Bộ Giáo dục đặt ra rất quyết liệt, như lời khẳng định của Bộ trưởng cách đây vài tháng: Việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục phải bắt đầu từ việc đổi mới ngay các trường sư phạm[3]

Nhiều chuyên gia và nhà quản lý giáo dục cũng chia sẻ quan điểm trên. Nhưng đổi mới thế nào? Cho đến nay, câu hỏi này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng. Tình trạng không thống nhất có thể thấy rõ trong cuộc trao đổi về mô hình trường sư phạm tổ chức tại Hà Nội vào đầu tháng 12/2013[4].

Có hai mô hình đào tạo giáo viên được đưa ra thảo luận: Mô hình chuyển tiếp đào tạo chuyên môn trước, đào tạo nghiệp vụ sư phạm sau; và mô hình song song đào tạo cả hai khối kiến thức cùng một lúc. TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, nguyên trợ lý Bộ trưởng Giáo dục, kêu gọi từ bỏ mô hình song song đang áp dụng hiện nay để chuyển sang mô hình chuyển tiếp hiện đang được áp dụng tại Pháp. Tuy nhiên, ý tưởng của ông không dành được nhiều sự ủng hộ.  GS Đinh Quang Báo, nguyên Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội, cho rằng cần xem xét đối tượng đầu vào để lựa chọn mô hình phù hợp. Tương tự, GS Phạm Tất Dong cảnh báo rằng chúng ta không thể máy móc áp dụng mô hình của một nước nào. 

Một ý kiến khác cho rằng không có sự khác biệt giữa hai mô hình vì cả hai đều bao gồm hai khối kiến thức chuyên môn và sư phạm, chỉ khác về kế hoạch đào tạo (hai khối học cùng lúc hay học trước sau) mà thôi. Các ý kiến có ít nhiều khác nhau, nhưng đa số không ủng hộ ý kiến thay đổi mô hình đang áp dụng. 

Giữa các các nhà quản lý đương nhiệm của các trường sư phạm cũng có sự thiếu thống nhất. Trao đổi với báo Tiền Phong cách đây ít lâu, PGS TS Nguyễn Văn Minh, HIệu trưởng trường ĐH Sư phạm Hà Nội khẳng định sự cần thiết phải tự đổi mới, nhưng không đưa ra cụ thể, và hoàn toàn không đề cập đến các mô hình trường sư phạm.

Nhưng tại buổi làm việc của lãnh đạo Bộ gần đây, ĐH Sư phạm TP HCM đã đề xuất việc bổ sung thêm chương trình đào tạo khoảng 1,5 rưỡi đến 2 năm đối với những người đã có bằng cử nhân[5] vào chương trình 4 năm hiện có, tức áp dụng mô hình chuyển tiếp mà ông Tiến đã đề cập. Tuy nhiên, đề xuất của trường ĐH Sư phạm đến nay vẫn chưa nhận được phản hồi nào từ Bộ Giáo dục hoặc các trường sư phạm khác.

Những quan sát trên báo hiệu khả năng mô hình cũ vẫn sẽ được giữ, dù những khó khăn về cả đầu vào và đầu ra hiện nay vẫn chưa có cách nào để giải quyết. Dường như các trường sư phạm chỉ mong đợi vào sự thay đổi chính sách đầu tư và đãi ngộ của nhà nước đối với ngành sư phạm, mà chưa sẵn sàng đổi mới chính mình. Chính sách tốt tất nhiên là rất cần thiết, nhưng nếu các trường sư phạm vẫn giữ cách vận hành cũ thì ai dám tin những đầu tư và đãi ngộ của nhà nước sẽ đem lại hiệu quả tương xứng?

Song song hay chuyển tiếp?
Để có được sự thống nhất giữa các trường, cần nêu rõ những ưu điểm và hạn chế của từng mô hình để từ đó đưa ra lựa chọn phù hợp nhất. Tổ chức OECD trong một nghiên cứu được công bố năm 2009 đã làm giúp chúng ta điều này[6]. Trong phạm vi các nước thuộc OECD, người ta thấy mặc dù mô hình chuyển tiếp đang được nhiều nước sử dụng hơn, nhưng  cả hai mô hình đều đang tồn tại, trong đó mô hình song song được sử dụng phổ biến hơn để đào tạo giáo viên bậc tiểu học, còn mô hình chuyển tiếp thì phổ biến hơn để đào tạo giáo viên ở những bậc học cao hơn. 

Ưu điểm của mô hình song song là tính tích hợp cao giữa hai khối kiến thức chuyên môn và sư phạm, nhưng hạn chế của nó là sự cứng nhắc ở đầu vào, bít lối vào nghề của những người đã có một bằng đại học khác nhưng muốn trở thành nhà giáo.

Ngược lại, mô hình chuyển tiếp thiếu sự tích hợp của mô hình song song, nhưng cung cấp cho người học một nền tảng kiến thức chuyên môn vững vàng hơn, đồng thời tạo một đầu vào mở cho nghề giáo và tạo cho thầy cô giáo cơ hội trở lại thị trường lao động nếu không còn muốn làm trong ngành giáo dục. Tuy đối lập, nhưng hai mô hình song song và chuyển tiếp không loại trừ nhau mà có thể cùng tồn tại trong một hệ thống.

Có thể thấy mô hình chuyển tiếp chính là giải pháp có thể giúp các trường giải quyết tình trạng tắc nghẽn ở cả đầu vào và đầu ra. Vì vậy, nếu việc chuyển đổi hoàn toàn từ mô hình song song sang mô hình chuyển tiếp được xem là quá đột ngột, thì đề nghị kết hợp cả hai mô hình của trường ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh là hợp lý và cần được ủng hộ.

Cần bổ sung cơ chế đảm bảo chất lượng
Có một yếu tố hoàn toàn thiếu vắng trong khung mô hình đào tạo giáo viên của Việt Nam nhưng không được nhắc đến trong các cuộc trao đổi, đó là cơ chế đảm bảo chất lượng nghề giáo. Là một nghề chuyên nghiệp, nghề giáo đòi hỏi các giáo viên phải thường xuyên bồi dưỡng và cập nhật kiến thức, học hỏi kinh nghiệm thực tế và bổ sung các kỹ thuật hoặc phương pháp sư phạm mới trong quá trình hành nghề. Ở  Việt Nam hàng năm cũng có thực hiện chương trình “bồi dưỡng giáo viên”, nhưng cách làm rất hình thức và hiệu quả rất thấp. 

Báo cáo của OECD nhắc chúng ta rằng ở các nước tiên tiến, chất lượng giáo viên được đảm bảo bằng cơ chế cấp giấy phép hành nghề cùng kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. Những loại giấy này chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định; vì vậy, có thể nói việc cập nhật kỹ năng, kiến thức, và phương pháp mới đã được lắp đặt sẵn trong cơ chế này khi giáo viên và các trường xin gia hạn giấy phép  hành nghề hoặc giấy chứng nhận kiểm định.

Quá trình kiểm định thúc đẩy sự giao lưu, chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, một điều đang rất thiếu tại Việt Nam. Đồng thời, cơ chế này cũng đồng thời kiểm soát chất lượng của những người mới bắt đầu bước vào nghề giáo khi đầu vào của ngành sư phạm được mở rộng với mô hình đào tạo chuyển tiếp. Tất nhiên, kiểm định không thể do Bộ Giáo dục kiểm soát, mà phải do một bên thứ ba độc lập. Đây cũng là một điều mà Việt Nam còn thiếu và cần nhanh chóng bổ sung.  

Cho dù các trường có nỗ lực thay đổi như thế nào mà thiếu chính sách đầu tư, hỗ trợ và đãi ngộ của nhà nước đối với các trường sư phạm và các nhà giáo thì vẫn không đủ để tạo ra những thay đổi bền vững. Tuy nhiên, với vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục, sự đổi mới thành công mô hình đào tạo giáo viên vẫn là bước khởi đầu quan trọng và cần thiết để có thể triển khai thành công công cuộc đổi mới giáo dục của Việt Nam, như câu trích dẫn quen thuộc mà bất cứ ai làm trong ngành giáo dục cũng biết: “Không một nền giáo dục nào có thể vượt qua trình độ của đội ngũ giáo viên của chính nó”.[7]



[7] Câu trích dẫn này xuất hiện lần đầu tiên trong báo cáo của hai tác giả Barber và Mourshed (Hoa Kỳ) năm 2007, Kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên trong một báo cáo của các tác giả phương Tây cách đây hơn nửa thập niên, http://www.publications.parliament.uk/pa/cm201012/cmselect/cmeduc/1515/151505.htm

Thursday, March 20, 2014

Tám câu hỏi về vụ luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên

Qua thông tin trên mạng, tôi được biết luận văn thạc sĩ của cô Nhã Thuyên Đỗ Thị Thoan (từ đây sẽ gọi là Nhã Thuyên) đã được trường ĐHSP Hà Nội đánh giá lại. Và, trên cơ sở kết quả đánh giá, Nhã Thuyên đã bị tước bằng thạc sĩ.

Vụ luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên không phải là việc mới. Cách đây hơn nửa năm, vụ này đã gây xôn xao dư luận, mà khởi đầu của nó là một loạt bài phê phán nặng nề nội dung cuốn luận văn đã hoàn tất trước đó 3 năm (và đạt điểm tuyệt đối 10/10) được đăng trên báo Văn Nghệ TP HCM. Dựa vào kinh nghiệm về những gì đã xảy ra từ trước tới nay, người ta lập tức đoán ngay rằng loạt bài ấy có lẽ nhằm mục đích chuẩn bị dư luận và là tiếng chuông báo hiệu một kết cuộc không lấy gì làm tốt đẹp cho tác giả của cuốn luận văn cũng như người hướng dẫn nó.

Thật may (?), loạt bài ấy bộc lộ quá nhiều sơ hở trong lập luận nên hoàn toàn không thể thuyết phục được công chúng. Đã có những bài đáp trả lại những lập luận yếu kém của loạt bài tấn công, khiến cho công tác chuẩn bị dư luận của bài báo kia bị vô hiệu hóa. Theo những nguồn tin bên trong mà tôi được biết, ngay từ lúc ấy người ta đã có ý định thành lập lại hội đồng thẩm định lại luận văn và tước bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên rồi. Nhưng có lẽ do hoàn cảnh bên ngoài không thuận lợi, nên người ta chỉ tố chức một buổi trao đổi về nội dung luận văn và sau đó Nhã Thuyên vẫn được (tạm thời) tiếp tục giữ tấm bằng thạc sĩ mà cô đã từng bảo vệ với số điểm tuyệt đối.

Tôi là người cũng đã lên tiếng trong cuộc tranh luận lần trước, và theo dõi khá kỹ những gì đã xảy ra, dù việc của Nhã Thuyên không mấy liên quan đến tôi: Tôi không cùng ngành (văn hóa/văn học), không cùng trường (ĐH Sư phạm Hà Nội), cũng chẳng quen biết bất kỳ ai có liên quan đến luận văn này. Nhưng tôi quan tâm vì nó là một việc xảy ra trong giới đại học, và những ứng xử vô lý nếu có của những người có trách nhiệm cần phải được đem ra trao đổi và tranh luận để trước hết đem lại công bằng cho những người trong cuộc; sau nữa – và quan trọng hơn – là để tránh những trường hợp tương tự về sau. Vì vậy, tôi rất vui khi nghe tin Nhã Thuyên không bị tước bằng như những lời đồn đoán lúc ấy, và trong bụng mừng thầm vì như thế có nghĩa là những người có trách nhiệm đã cởi mở hơn, đã biết lắng nghe và tiếp thu những ý kiến hợp lý và hợp với thông lệ quốc tế.

Câu chuyện tưởng dừng lại ở đó, nhưng giờ đây – nếu những thông tin mà tôi đọc được trên mạng là đúng – thì mọi điều đồn đoán trước đây vẫn cứ xảy ra, chỉ là lùi thời gian thực hiện lại thôi. Một kiểu hoãn binh. Vì sau một thời gian chờ cho dư luận lắng đọng, thì một hội đồng mới lại được lập ra để đánh giá lại luận văn của Nhã Thuyên, và trên cơ sở kết quả đánh giá lại này, cô thạc sĩ trẻ ấy đã bị tước bằng. Người hướng dẫn Nhã Thuyên thực hiện luận văn này là PGS TS Nguyễn Thị Bình thì bị chấm dứt hợp đồng trước tuổi, mặc dù với chức danh  PGS, lẽ ra bà có thể tiếp tục được làm việc thêm 5 năm nữa.

Thực sự cho đến bây giờ tôi vẫn không rõ những gì tôi đã viết ở trên – dựa vào những gì đọc được trên mạng – có chính xác hay không. Vì, không giống như lần trước khi báo chí lề phải khua chiêng gõ trống ầm ĩ về luận văn của Nhã Thuyên, lần này tuyệt nhiên không có một lời nào trên báo. Nhưng dù đúng dù không, tôi nghĩ bây giờ là lúc những người có trách nhiệm lên tiếng chính thức. Nếu những gì tôi nghe được là sai (và tôi chỉ mong là nó sai) thì chỉ cần trường ĐHSP lên tiếng đính chính trên báo chí là đủ. Còn nếu những điều tôi đã nghe là đúng, tôi xin gửi đến những người có trách nhiệm trong việc này một số thắc mắc, mong sớm nhận được câu trả lời. 

Đúng ra, tôi muốn gọi những thắc mắc của tôi là những lời chất vấn, vì ĐHSP Hà Nội là một trường đại học công, có sử dụng tiền thuế của người dân (trong đó có tôi), và cũng là nơi có trách nhiệm đào tạo ra những thầy cô giáo để phục vụ trong nền giáo dục quốc dân mà con cái tôi sẽ được hưởng nếu nó tốt, hoặc phải chịu nếu nó không tốt.

Những thắc mắc (đúng hơn là chất vấn) của tôi như sau:

1.      Dựa trên những căn cứ nào mà trường ĐHSP HN lại thành lập hội đồng chấm lại luận văn của Nhã Thuyên? Có phải là những bài báo phê phán đầy sơ hở (vd: những bài viết của “nhà nghiên cứu” Nguyễn Văn Lưu) mà dư luận đã chỉ ra cách đây hơn nửa năm chăng? Hay còn những căn cứ nào khác?

2.      Dựa trên những căn cứ nào mà hội đồng chấm lại luận văn lại đưa ra những kết luận trái ngược lại với hai hội đồng trước đó (hội đồng chấm luận văn và hội đồng tư vấn, cả hai đều bao gồm những chuyên gia hàng đầu)? Xin nhắc lại, kết quả luận văn của Nhã Thuyên trước đây đã đạt điểm tuyệt đối.

3.      Nếu cho rằng kết quả chấm lại mới chính xác và vì thế Nhã Thuyên đáng bị tước bằng, vậy có thể kết luận rằng hội đồng chấm lần trước, và cả người hướng dẫn, đã sai?

4.      Những sai lầm của luận văn Nhã Thuyên là sai lầm về khoa học, hay đó là những sai lầm về tư tưởng, đường lối? Trường ĐH Sư phạm HN có thể công khai thông báo tóm tắt kết luận của hội đồng cho mọi người cùng biết được không? Nếu đó là vấn đề tư tưởng, vậy những điều nào, hoặc những hiện tượng nào, là cấm kỵ không được nghiên cứu hoặc ủng hộ, liệu đã có quy định chưa? Nếu chưa có, thì Nhã Thuyên không thể sai và không thể xử lý, mà chỉ có thể rút kinh nghiệm. Nếu đã có, xin được nêu công khai rộng rãi, để những người sau không mắc phải những sai lầm tương tự.

5.      Nếu luận văn của Nhã Thuyên sai (nên Nhã Thuyên đã bị tước bằng), vậy những người đã hướng dẫn và thẩm định luận văn cũng phải có trách nhiệm, thậm chí là trách nhiệm chính. Tại sao trường ĐHSP Hà Nội lại chỉ “xử” một mình cô học trò là Nhã Thuyên, dù sao cũng chỉ là một sản phẩm đào tạo của trường? Hay ĐHSP Hà Nội sẽ có quyết định về “số phận” của những người này sau, và nếu vậy, thì bao giờ?

6.      Những người đã hướng dẫn và thẩm định luận văn Nhã Thuyên trước đây là những người có học hàm, học vị, và cả chức vụ quan trọng trong hệ thống. Nếu như họ sai, và sai nghiêm trọng đến như vậy, thì những người đã đào tạo, bổ nhiệm, và sử dụng những người ấy có phải truy cứu trách nhiệm không? Và sẽ xử lý ra sao?

7.      Từ những chất vấn phía trên, có thể thấy suy cho cùng, nếu luận văn Nhã Thuyên là sai, thì đó là lỗi hệ thống chứ không phải là lỗi của riêng cá nhân nào. Như thế, các sản phẩm đào tạo của hệ thống ấy hẳn đã sai hàng loạt. Vậy chúng ta có cần thành lập hội đồng để xem xét lại tất cả các luận văn, luận án trước đây của hệ thống này hay không, hay chỉ khoanh vùng một trường hợp này thôi? Tại sao?

8.      Cuối cùng, trước khi bị lôi ra đả phá trên báo chí chính thống thì luận văn của Nhã Thuyên (cũng như nhiều luận văn, luận án khác) vẫn được xem là làm đúng quy trình, quy định và đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học. Thậm chí, với điểm đạt tuyệt đối, nó còn là một ví dụ mẫu mực của một luận văn của trường ĐHSP Hà Nội. Thế mà chỉ vì có ai đó tình cờ đọc và đem ra phê phán thì kết quả thẩm định trước đó đã bị đảo ngược, trong khi những trường hợp tương tự có thể có nhưng không bị ai moi ra thì vẫn an toàn. Như thế, có công bằng với Nhã Thuyên hay không? Và  có thể nghi ngờ rằng đây chỉ là một việc mạo danh khoa học mà tấn công cá nhân – cá nhân Nhã Thuyên, và cá nhân người hướng dẫn của Nhã Thuyên mà giờ đây đang bị đối xử bất công mà không có lý do chính thức nào – hay không?

Dù ai đúng, ai sai thì điều này cũng làm cho uy tín khoa học của trường ĐHSP Hà Nội bị giảm sút nghiêm trọng, nếu không có những lý giải hợp lý về việc đã xảy ra, và quan trọng hơn, sự phân tích nguyên nhân và đề xuất các biện pháp để ngăn ngừa những trường hợp tương tự trong tương lai. Một trường đại học sư phạm lớn với bề dày truyền thống như ĐHSP Hà Nội mà để xảy ra tình trạng như vậy rõ ràng là không thể chấp nhận được.

Rất mong những thắc mắc (chất vấn?) của tôi được những người có trách nhiệm hiện nay của trường ĐHSP Hà Nội quan tâm trả lời. Vì nếu không, tôi bắt buộc phải kết luận rằng trường ĐHSP Hà Nội đã ứng xử tùy tiện, thiếu khoa học, thiếu trách nhiệm với các sinh viên và cán bộ, giảng viên của mình, và hơn hết, là thiếu trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn đầu tư của nhà nước mà vốn là tiền thuế của người dân, trong đó có tôi. Ngoài ra, tôi cũng mong báo chí, đặc biệt là những tờ báo đã moi ra vụ này, tiếp tục vào cuộc để làm rõ vấn đề, để thuyết phục người đọc rằng những gì đang diễn ra là minh bạch, công tâm, và khoa học, chứ không phải là những việc làm lén lút, ném đá giấu tay, mượn những tấm bình phong to tát như khoa học hoặc tư tưởng để trả thù cá nhân, vì hiện nay đang có những dư luận không tốt như vậy.


Trân trọng. 

Tuesday, March 4, 2014

"Giáo dục đại học: Chỉ nên kiểm soát đầu ra" (bài phỏng vấn PA trên báo PLTP ngày 4/3/2014)

Một bài phỏng vấn hay - tức là đặt những câu hỏi hay ấy ạ, chứ không phải là người trả lời hay đâu nhé. Vì ... người trả lời là tôi mà, nên đương nhiên là tôi thấy ... hay rồi :-). Còn người khác có thấy hay hay không thì còn tùy quan điểm của người đọc. Các bạn xem dưới đây nhé.

Link: http://plo.vn/giao-duc/giao-duc-dai-hoc-chi-nen-kiem-soat-dau-ra-451676.html
---------

Giáo dục đại học: Chỉ nên kiểm soát đầu ra


Điểm sàn hay điểm liệt cũng cùng mục đích như nhau. Vậy nên, Bộ nên để các trường tự do tuyển sinh. Việc của Bộ là chú trọng kiểm soát chất lượng đầu ra của sinh viên.
Bộ GD&ĐT vừa ban hành quyết định bỏ điểm sàn trong kỳ tuyển sinh ĐH-CĐ năm 2014. Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu những trao đổi của TS Vũ Thị Phương Anh - Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng chất lượng của Hiệp hội Các trường ĐH,CĐ ngoài công lập xung quanh vấn đề này.
TS Vũ Thị Phương Anh quan ngại rằng dù cố gắng trao thêm quyền tự chủ trong tuyển sinh cho các trường ĐH-CĐ nhưng thực tế Bộ vẫn còn can thiệp quá sâu vào quá trình đó.
Dùng điểm liệt cũng sẽ không hiệu quả
Phóng viên: Xin tiến sĩ cho biết thêm cách thức xác định điểm liệt ở Việt Nam?

 
+ TS Vũ Thị Phương Anh: Trong khoa học trắc nghiệm không có phân biệt điểm sàn hay điểm liệt, mà chỉ xác định mức điểm “cắt” (cut-off), tức những ai nằm ở dưới mức cắt thì sẽ bị loại. Có hai phương pháp để xác định mức cắt này: Phương pháp tương đối, dựa trên việc quy đổi điểm thô kết quả của kỳ thi theo phương pháp thống kê và phương pháp tuyệt đối, dựa trên ý nghĩa của từng điểm số. Điểm liệt của Việt Nam có thể hiểu một cách đơn giản là điểm cắt được xác định theo phương pháp tuyệt đối, còn điểm sàn của kỳ thi “ba chung” là điểm cắt được xác định theo phương pháp tương đối.

Khi Bộ áp dụng “ba chung”, chúng ta đã áp dụng phương pháp sử dụng điểm tương đối (điểm thống kê) để tìm ra điểm sàn. Còn điểm liệt thì thường được áp đặt ở mức 3 điểm (trên thang 10) nhưng tôi cho đó là một cách làm thiếu cơ sở khoa học. Bởi điểm số đạt được của thí sinh còn phụ thuộc vào độ khó của bài thi: 3 điểm của một bài thi khó có thể tương đương với 6 điểm của một bài thi dễ.
. Nếu áp dụng điểm liệt như vậy, liệu có thể mang về hiệu quả như mong muốn?
+ Về lý thuyết, điểm liệt cũng là một giải pháp để đảm bảo chất lượng đầu vào tối thiểu. Tuy nhiên, để đánh giá tính hiệu quả chính là cách thức xác định điểm liệt dựa trên cơ sở của khoa học trắc nghiệm, điều mà Việt Nam đang gặp khó. Lấy ví dụ dễ hiểu, khi chọn điểm liệt là 3 điểm thì cần phải chứng minh được những người đạt từ 3 điểm trở xuống của một môn nào đó sẽ không thể học được nếu đậu vào ĐH. Với cách làm đề thi hiện nay ở Việt Nam, tôi tin là không có ai dám quả quyết điểm rằng điểm liệt đã đưa ra là hoàn toàn chính xác. Vì vậy theo tôi, không nên đặt vấn đề điểm liệt hoặc điểm sàn gì cả, mà nên để các trường lấy từ trên xuống dưới cho đến khi đủ chỉ tiêu.

 Bộ GD&ĐT chỉ nên tập trung phương án đảm bảo chất lượng đầu ra. Trong ảnh:Sinh viên khoa Quan hệ quốc tế ĐH KHXH&NV TP.HCM tốt nghiệp và được các đơn vị tuyển dụng đánh giá năng lực. Ảnh: GIANG PHẠM
Bộ cứ giao cho trường tự do tuyển sinh
. Thực tế Bộ có xu hướng giao quyền tự chủ trong tuyển sinh về cho các trường. Tuy nhiên, nhiều băn khoăn là làm thế nào chất lượng kỳ thi quốc gia được đảm bảo?
+ Đừng quá nặng nề cụm từ “chất lượng kỳ thi”. Cơ quan quản lý giáo dục của các nước phát triển chẳng ai quan tâm về việc này, vì đó là việc của các trường. Thực ra bao giờ các trường cũng muốn tuyển được người tốt nhất để vào học. Vì nếu tuyển người kém thì cũng sẽ rất khó đào tạo, sinh viên vào học sẽ rớt lên rớt xuống rồi bỏ học hoặc học khó khăn và ra trường với điểm kém, không kiếm được việc làm, trường cũng mất uy tín. Tuy nhiên, cần phải lưu ý thêm là đối với các trường công lập có sử dụng ngân sách nhà nước thì để đảm bảo sự công bằng cho thí sinh, có thể tiếp tục áp dụng những biện pháp đảm bảo chất lượng kỳ thi theo cách làm như cũ: thanh tra trong các kỳ thi, hoặc lúc chấm thi, hoặc giải quyết tốt các khiếu nại hay kiện cáo.
. Không có Bộ can thiệp, liệu chất lượng người trúng tuyển đầu vào có được đảm bảo?
+ Các trường ĐH-CĐ biết họ cần đầu vào là những học viên như thế nào. Nhà nước cứ để họ tự do chọn lựa.
. Nhưng thực tế có nhiều trường cố lấy thật nhiều chỉ tiêu để được lợi, thưa tiến sĩ?
+ Chỉ tiêu không phải dựa trên mong muốn của trường, mà phải được căn cứ vào điều kiện đảm bảo chất lượng hay năng lực đào tạo của các trường… Đây là một cách để kiểm soát chất lượng. Trong điều kiện còn có nhiều trường thiếu thầy, thiếu cơ sở vật chất… như hiện nay thì việc cấp chỉ tiêu cho các trường phải được Bộ thẩm tra chặt chẽ, minh bạch. Không thả lỏng việc cấp chỉ tiêu cho đến khi hệ thống kiểm định chất lượng thực sự đi vào hoạt động hiệu quả và đáng tin cậy.
. Theo bà, với các trường chọn phân khúc học viên đầu vào chất lượng thấp, Bộ nên ứng xử thế nào?
+ Nếu là trường tư, Bộ cứ hãy để thị trường sàng lọc và đào thải. Nếu trường đào tạo kém, chất lượng đầu ra không đạt nhu cầu xã hội thì tỉ lệ có việc làm sẽ thấp vì chẳng ai bỏ tiền ra thuê người không đủ năng lực về làm việc. Cũng chẳng ai dám vào học một nơi mà ra trường không xin được việc.
Mặt khác, quyền học là quyền tự do của người ta, Bộ không nên tạo rào cản. Kinh nghiệm cho thấy khoảng 10%-20% trong số những trường bị xem là chất lượng thấp vẫn có những sinh viên khẳng định được năng lực và có việc làm đàng hoàng. Nếu “bít cửa” đối với 100% học sinh tốt nghiệp THPT có điểm thi ĐH-CĐ thấp thì chúng ta đã làm mất đi một lượng lớn nguồn lao động đã qua đào tạo.
. Nếu Bộ đã không can thiệp phương án tuyển sinh của các trường, nên chăng bỏ luôn kỳ thi ĐH-CĐ?
+ Thi hay không là do các trường quyết định, Bộ không nên can thiệp. Trước đây nhiều trường ĐH cũng không tổ chức thi mà họ xét, kết quả đào tạo vẫn tốt. Tuy nhiên, các trường đào tạo ra nghề đòi hỏi trình độ cao như bác sĩ, kỹ sư, luật sư, giáo viên… thì phải thi, mặc dù thi thế nào thì vẫn do các trường quyết định. Điều quan trọng là đảm bảo chất lượng đầu ra chứ không phải là chất lượng đầu vào. Bộ hiện nay thì chỉ quản đầu vào còn đầu ra thì bỏ ngỏ.
Xây dựng hội nhà nghề “đo” chất lượng đầu ra
. Vậy theo tiến sĩ, kiểm soát chất lượng đầu ra của các trường bằng cách nào?
+ Phải sử dụng phương pháp kiểm định. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cơ quan kiểm định không phải là Bộ GD&ĐT, mà là các hiệp hội nghề nghiệp. Mỗi ngành nghề đều có mỗi thang năng lực nhân sự, người lao động riêng do hội nghề nghiệp đặt ra. Ví dụ, để đánh giá chất lượng một sinh viên ngành báo chí thì Hiệp hội Nghề báo sẽ là tổ chức gồm những nhà báo có đầy đủ năng lực về chuyên môn và các yếu tố khác để kiểm định. Nhiệm vụ của Bộ là làm sao liên kết được các hội nghề nghiệp tham gia vào việc đánh giá chất lượng của sinh viên tốt nghiệp, từ đó có những điều chỉnh hợp lý trong công tác quản lý chung, định hướng các trường điều chỉnh chương trình đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra hợp lý và thực tế.
. Làm sao để có thể phát triển mô hình kiểm định này tại Việt Nam?
+ Tôi thấy mô hình kiểm định theo kiểu hiệp hội nhà nghề là một điều mà Việt Nam hoàn toàn chưa có. Vậy nên, phải quan tâm ngay lập tức, nếu không thì sẽ không thể nào cạnh tranh được với các nước trong khu vực khi bắt đầu cộng đồng kinh tế ASEAN - AEC vào năm 2015. Phải tăng cường vai trò của Bộ GD&ĐT trong việc kết nối với các hội nhà nghề để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đầu ra của các trường. Đồng thời, Nhà nước nên quan tâm, khuyến khích xây dựng phát triển các hội nhà nghề trong nước, phục vụ việc đánh giá năng lực sinh viên ra trường.
. Xin cảm ơn tiến sĩ.
ĐỖ THIỆN thực hiện
----------------------------
Các nước tính điểm liệt ra sao?
Ở các nước không có điểm liệt mà chỉ có điểm "cắt” (cut-off point). Cách tính điểm "cắt” theo phương pháp tuyệt đối: Cần phải có thang điểm mô tả (rubrics), theo đó từng điểm số sẽ kèm theo một bản mô tả về ý nghĩa của điểm số dựa trên thang năng lực của người học. Loại thang điểm này được dùng khá phổ biến trong các kỳ thi ngoại ngữ của các tổ chức khảo thí quốc tế.
Có thể lấy ví dụ là thang điểm 9 của phần ngữ pháp trong bài thi Writing của kỳ thi IELTS, như sau:
1 điểm = hoàn toàn không viết được thành câu; 2 điểm = chỉ viết được những câu quen thuộc do thuộc lòng; 3 điểm = câu viết có nhiều lỗi ngữ pháp và chấm câu làm ảnh hưởng nặng đến ý nghĩa của câu; 4 điểm = chỉ sử dụng được một số mẫu câu đơn giản, hầu như không dùng được câu phức…
Dựa trên thang mô tả này, có thể chọn mức năng lực tối thiểu cần có để có thể học, nếu dưới mức đó thì sẽ không thể học được. Năng lực ngoại ngữ cần có để theo học ở bậc ĐH chắc chắn phải từ 6 điểm IELTS trở lên, vậy có thể xem 6 điểm IELTS chính là mức cắt, dưới 6 điểm thì không thể có đủ khả năng để học.