Tuesday, September 3, 2019

CẦN LÀM GÌ ĐỂ TIẾNG ANH TRỞ THÀNH NGÔN NGỮ THỨ HAI TẠI VIỆT NAM?

Đây là bản thảo gốc của một bài viết của tôi, đã đăng trên báo Thanh Niên cách đây ít lâu. Nay đăng lại trên blog để lưu.
-------------

CẦN LÀM GÌ ĐỂ TIẾNG ANH TRỞ THÀNH NGÔN NGỮ THỨ HAI TẠI VIỆT NAM?

Đề xuất táo bạo mới đây của Bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông với Thủ tướng về việc sớm công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai tại Việt Nam đang đặt ra cho các nhà chính sách lẫn giới chuyên môn một câu hỏi: Nếu chính sách này được ban hành, thì làm thế nào để nó thực sự đi vào cuộc sống, chứ không chỉ tồn tại trên giấy?

Trước hết, cần làm rõ thế nào là tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai. Có hai cách hiểu về cụm từ này. Cách thứ nhất, được sử dụng trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh, định nghĩa “tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai” là tiếng Anh của một người ngoại quốc học và sử dụng tiếng Anh TRONG MÔI TRƯỜNG NÓI TIẾNG ANH Tiếng Anh bản ngữ (TƯƠNG TỰ như KHI HỌC tại Anh, Mỹ, Úc …). Theo cách hiểu này, thì tiếng Anh tại Việt Nam chỉ được học/dạy như một ngoại ngữ, vì chúng ta không có một cộng đồng đông đảo những người nói tiếng Anh bản ngữ để tạo ra môi trường sử dụng tiếng Anh hàng ngày một cách tự nhiên. Đây là lý do tại sao trước đây khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục Phùng Xuân Nhạ đưa ra chủ trương chủ trương “đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai tại Việt Nam” như một mục tiêu của Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020 thì đã có nhiều người băn khoăn hoặc lên tiếng phản đối.

Bên cạnh cách hiểu phổ biến nêu trên, vẫn còn một cách hiểu khác nữa, và hẳn là đây là cách hiểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng. Khi nói đến việc “công nhận” một ngôn ngữ nào đó “như ngôn ngữ thứ hai” là ta đang nói đến địa vị pháp lý của ngôn ngữ ấy trong xã hội, bên cạnh ngôn ngữ đã được công nhận là ngôn ngữ quốc gia (ở đây là tiếng Việt). Đúng hơn, để tránh nhầm lẫn thì trong trường hợp này nên nói rõ “công nhận tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức thứ hai” (sau tiếng VIệt). Và để một ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của dân chúng trở thành một ngôn ngữ chính thức thứ hai của một quốc gia, thì điều đầu tiên cần làm là có một chính sách về ngôn ngữ/ngoại ngữ để tạo ra địa vị pháp lý cho ngôn ngữ ấy. Tóm lại là, như Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã nói, chúng ta cần Thủ tướng sớm công nhận tiếng Anh như một ngôn ngữ chính thức được sử dụng tại Việt Nam.

Nhưng phải chăng chỉ cần Thủ tướng đồng ý công nhận và ban hành chính sách thì ngay lập tức chúng ta sẽ có một môi trường sử dụng tiếng Anh tương tự như Singapore, Philippines, hay ít nhất là Malaysia? Tất nhiên, mọi việc không đơn giản thế. Nói ngắn gọn, để công nhận tiếng Anh như ngôn ngữ (chính thức) thứ hai tại Việt Nam thì điều kiện căn bản duy nhất cần đáp ứng là phải tạo ra một môi trường sử dụng tiếng Anh hàng ngày cho những người muốn hoặc cần sử dụng tiếng Anh. Và đó là lý do tại sao cho đến nay việc chính sách xem tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai dễ dàng thành công ở các nước cựu thuộc địa, do những nước này đã có sẵn một “hạ tầng tiếng Anh” trong xã hội do chính quyền thực dân để lại.

Có thể học hỏi từ kinh nghiệm của hai quốc gia trong khu vực Đông Nam Á là Malaysia và Singapore. Cả hai đều là cựu thuộc địa của Anh. Trong thời gian còn dưới quyền cai trị của Anh thì tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức duy nhất, được sử dụng  trong toàn bộ lĩnh vực  công quyền (hành chính – pháp lý, cùng tất cả các dịch vụ công như giáo dục, y tế, truyền thông báo chí vv). Sau khi dành được độc lập, thì chính quyền sở tại đứng trước một trong hai lựa chọn sau đây: (1) xóa bỏ hoàn toàn địa vị pháp lý của tiếng Anh, chỉ giảng dạy ngôn ngữ này trong nhà trường như một ngoại ngữ; (2) cho phép tiếng Anh tồn tại bên cạnh ngôn ngữ quốc gia với vai trò là một trong những ngôn ngữ chính thức.

Lựa chọn đầu tiên là điều mà Malaysia đã làm, và nhiều năm sau đất nước này đã vô cùng hối tiếc vì phải rất tốn rất nhiều công sức và thời gian để nâng cao khả năng tiếng Anh của người dân mà vẫn không đạt được kết quả mong muốn. Trong khi đó, Singapore đã táo bạo là giữ lại địa vị pháp lý của tiếng Anh trong xã hội. Kể từ khi Singapore độc lập, tiếng Anh chưa bao giờ mất vai trò chính thức của mình dù chỉ một ngày. Cố Thủ tướng tài ba Lý Quang Diệu đã rất sớm nhận ra rằng đối với Singapore, tiếng Anh chính là công cụ cho sự phát triển và hội nhập đất nước. Sự thành công của Singapore ngày nay không phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của những chính sách ngôn ngữ kiên trì và mạnh mẽ trong suốt mấy chục năm qua, từ việc sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính thức trong nhà trường, dạy tiếng Anh cho trẻ em ngay từ mầm non và tiểu học, nhập toàn bộ sách giáo khoa từ Anh về cho học sinh học, đến việc buộc mọi công chức nhà nước phải có trình độ tiếng Anh thành thạo mới được bổ nhiệm vào chức vụ, vv. Những quyết định táo bạo mà không ít lần vấp phải nhiều chống đối. Và tốc độ phát triển của Singapore đã chứng minh cho sự sáng suốt của vị thủ tướng đầu tiên của đất nước này.

Rút cục lại, thì cũng giống như nền kinh tế thị trường, chúng ta không thể cứ tuyên bố xong là thế giới sẽ công nhận chúng ta. Để một ngôn ngữ được xem là chính thức tại một quốc gia thì ngôn ngữ ấy tối thiểu phải là ngôn ngữ của hành chính – pháp lý và của mọi dịch vụ công cộng.  Nếu các cơ quan công quyền hoàn toàn không sử dụng tiếng Anh, mọi giấy tờ văn bản đều bằng tiếng Việt, công chức – viên chức địa phương chỉ biết nói tiếng Việt; báo chí truyền thông cũng hoàn toàn bằng tiếng Việt; và ra đường nhìn bảng hiệu, đi xe công cộng, hỏi thăm đường vv đều phải sử dụng tiếng Việt, thì việc ban hành chính sách công nhận tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai tại Việt Nam ngay lúc này chỉ thể hiện một ý chí hoàn toàn vượt quá khả năng đáp ứng của chúng ta mà thôi.