Showing posts with label researchmethodology. Show all posts
Showing posts with label researchmethodology. Show all posts

Sunday, March 11, 2018

So sánh nghiên cứu định lượng và định tính

Nguồn:
http://www.fetp.edu.vn/cache/MPP8-522-L13V-Phuong%20phap%20nghien%20cuu_Ly%20thuyet%20va%20thuc%20tien--Nguyen%20Si%20Anh-2016-08-17-13574781.pdf
---------
Nghiên cứu định tính
  1. Nhằm mô tả đầy đủ và chi tiết
  2. Người nghiên cứu có thể chỉ biết trước rất ít về những gì mình tìm sẽ hiểu, nghiên cứu.
  3. Thường sử dụng trong những giai đoạn đầu của các dự án nghiên cứu.
  4. Thiết kế mở.
  5. Người nghiên cứu chính là công cụ thu thập dữ liệu.
  6. Dữ liệu dưới dạng từ ngữ, hình ảnh, hiện vật.
  7. Nghiên cứu có tính chủ quan/tính cá nhân cao hơn
  8. Việc diễn giải các sự kiện là quan trọng, ví dụ sử dụng cách quan sát đối tượng tham gia nghiên cứu, phỏng vấn chuyên sâu, v.v.
  9. Dữ liệu định tính “phong phú” hơn, tốn nhiều thời gian, và ít có khả năng suy rộng (khái quát hóa) kết quả nghiên cứu.
  10. Người nghiên cứu có xu hướng tự hòa nhập vào trong vấn đề nghiên cứu.
Nghiên cứu định lượng
  1. Nhằm mục đích phân loại các đặc điểm, đo đạc, và xây dựng mô hình thống kê nhằm giải thích hiện tượng được quan sát/nghiên cứu.
  2. Người nghiên cứu đã biết khá rõ ràng từ trước về những gì mình sẽ tìm hiểu, nghiên cứu.
  3. Được khuyến nghị sử dụng trong những giai đoạn sau của các dự án nghiên cứu.
  4. Mọi khía cạnh nghiên cứu đều phải được thiết kế cẩn thận trước khi tiến hành thu thập dữ liệu.
  5. Người nghiên cứu sử dụng các công cụ như bảng câu hỏi hay thiết bị để thu thập dữ liệu.
  6. Dữ liệu dưới dạng số học và số thống kê.
  7. Nghiên cứu có tính khách quan cao hơn
  8. Nỗ lực đo lường và phân tích một cách chính xác những khái niệm nghiên cứu, ví dụ sử dụng các cuộc khảo sát, bảng câu hỏi, v.v.
  9. Dữ liệu mang tính hiệu quả cao hơn, có khả năng dùng để kiểm định các giả thuyết, nhưng có thể bỏ qua các chi tiết mang tính hoàn cảnh.
  10. Người nghiên cứu có xu hướng duy trì tính khách quan đối với vấn đề nghiên cứu.

Monday, January 21, 2013

"Các phương pháp nghiên cứu định tính"

Tìm thấy bài này trên mạng, thấy hữu ích nên chép lại ở đây để lưu. Nguồn: http://my.opera.com/xahoihoc/blog/show.dml/40703852.

------------

Các phương pháp nghiên cứu định tính (Qualitative Research)

Nghiên cứu khoa học là việc thu thập, phân tích và lý giải số liệu để giải quyết một vấn đề hay trả lời một câu hỏi (Varkevisser, 1991). Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng đầu tiên trong các nghiên cứu nhân chủng học. Để có được những thông tin sâu, các nhà nhân chủng học đi đến sống ở các cộng đồng mà họ muốn nghiên cứu, họ thường sử dụng các kỹ thuật như phỏng vấn phi cấu trúc, thu thập lịch sử đời sống, thảo luận nhóm, nghiên cứu trường hợp để quan sát và tìm hiểu những nguyên nhân chi phối hành vi ứng xử của người dân. Ngày nay, các kỹ thuật đó được sử dụng rộng rãi không chỉ trong phạm vi của nhân chủng học mà còn ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau đặc biệt là lĩnh vực Y- Xã hội học.


Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu định tính là gì?

Nghiên cứu định tính (NCĐT) là một phương pháp tiếp cận nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm văn hóa và hành vi của con người và của nhóm người từ quan điểm của nhà nghiên cứu. Nghiên cứu định tính cung cấp thông tin toàn diện về các đặc điểm của môi trường xã hội nơi nghiên cứu được tiến hành. Đời sống xã hội được nhìn nhận như một chuỗi các sự kiện liên kết chặt chẽ với nhau mà cần được mô tả một cách đầy đủ để phản ánh được cuộc sống thực tế hàng ngày. Nghiên cứu định tính dựa trên một chiến lược nghiên cứu linh hoạt và có tính biện chứng. Phương pháp này cho phép phát hiện những chủ đề quan trọng mà các nhà nghiên cứu có thể chưa bao quát được trước đó. Trong nghiên cứu định tính, một số câu hỏi nghiên cứu và phương pháp thu thập thông tin được chuẩn bị trước, nhưng chúng có thể được điều chỉnh cho phù hợp khi những thông tin mới xuất hiện trong quá trình thu thập. Đó là một trong những khác biệt cơ bản giữa phương pháp định tính và phương pháp định lượng.

So sánh nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính

Phương pháp nghiên cứu định lượng (NCĐL) sử dụng một bảng hỏi đã chuẩn bị trước theo một cơ cấu nhất định cho mọi đối tượng nghiên cứu. Một ví dụ điển hình của phương pháp này là điều tra KAP (Knowledge Attitude Pratice: Kiến thức – Thái độ - Thực hành). Nghiên cứu KAP cho phép suy luận thống kê từ kết quả thu được ở các mẫu tương đối nhỏ ra quần thể lớn hơn; nó cũng cho phép đo lường và đánh giá mối liên quan giữa những biến số; tiến hành điều tra khá dễ và triển khai khá nhanh chóng và kết quả thu được từ các cuộc điều tra tốt có thể sử dụng để so sánh theo thời gian hoặc giữa các vùng. Tuy nhiên KAP có một số nhược điểm và cần được sử dụng một cách thận trọng. Đáng lưu ý nhất là những sai số không do chọn mẫu, ví dụ người được hỏi trả lời không đúng các câu hỏi vì không nhớ hoặc do hiểu sai hoặc cố tình nói dối. Hai vấn đề nghiêm trọng nhất là:
- Sự phiên dịch lại về mặt văn hóa: xảy ra khi đối tượng phỏng vấn không hiểu câu hỏi đặt ra như ý định của nhà nghiên cứu mà lại hiểu khác đi và trả lời theo cách hiểu của họ.
- Những sai số ngữ cảnh là những yếu tố liên quan đến bản thân cuộc phỏng vấn. Phương pháp nghiên cứu định luợng giả định rằng hành vi và thái độ của con người không thay đổi theo ngữ cảnh. Tuy nhiên, câu trả lời của đối tượng có thể thay đổi phụ thuộc vào các ngữ cảnh khác nhau.

Nghiên cứu định tính cho phép các nghiên cứu viên hạn chế các sai số ngữ cảnh bằng cách sử dụng các kỹ thuật phỏng vấn và tạo ra một môi trường phỏng vấn mà trong đó đối tượng cảm thấy thoải mái nhất.

Các phương pháp thu thập thông tin khác nhau đem lại thông tin khác nhau. Vì vậy trước khi quyết định sử dụng phương pháp nào cần phải xác định loại thông tin nào cần thiết nhất cho mục đích nghiên cứu. Các phương pháp NCĐT và NCĐL có thể kết hợp để bổ sung lẫn cho nhau. Ví dụ:

- NCĐT có thể hỗ trợ cho NCĐL bằng cách xác định các chủ đề phù hợp với phương pháp điều tra.

- NCĐL có thể hỗ trợ cho NCĐT bằng cách khái quát hóa các phát hiện ra một mẫu lớn hơn hay nhận biết các nhóm cần nghiên cứu sâu

- NCĐT có thể giúp giải thích các mối quan hệ giữa các biến số được phát hiện trong các NCĐL

Sử dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp

Sử dụng NCĐT trong trường hợp:
- Chủ đề nghiên cứu mới và chưa được xác định rõ
- Nghiên cứu thăm dò, khi chưa nắm được những khái niệm và các biến số
- Khi cần thăm dò sâu, khi muốn tìm hiểu mối quan hệ giữa những khía cạnh đặc biệt của hành vi với ngữ cảnh rộng hơn
- Khi cần tìm hiểu về ý nghĩa, nguyên nhân hơn là tần số
- Khi cần có sự linh hoạt trong hướng nghiên cứu để phát hiện những vấn đề mới và khám phá sâu một chủ đề nào đó
- Nghiên cứu sâu và chi tiết những vấn đề được chọn lựa kỹ càng, những trường hợp hoặc các sự kiện

Sử dụng NCĐL trong trường hợp
- Chủ đề nghiên cứu đã được xác định rõ và đã quen thuộc
- Khi những vấn đề cần đo lường khá nhỏ hay đã từng được giải quyết
- Khi không cần thiết phải liên hệ những phát hiện với các bối cảnh xã hội hay văn hóa rộng hơn hay bối cảnh này đã được hiểu biết đầy đủ
- Khi cần sự mô tả chi tiết bằng các con số cho một mẫu đại diện
- Khi khả năng tiến hành lại sự đo lường là quan trọng
- Khi cần khái quát hóa và so sánh kết quả trong quần thể nghiên cứu

(...)


Ai có thể thực hiện nghiên cứu định tính
- Người nắm rõ thực địa.
- Người nắm rõ đối tượng nghiên cứu kể cả lịch sử, kinh tế-văn hóa-xã hội nơi đối tượng sinh sống.
- Người được huấn luyện tốt (có kiến thức và kỹ năng tốt).
- Người có kinh nghiệm trong tiếp xúc với những người thuộc các thành phần xã hội khác nhau .
- Người kiên nhẫn và biết lắng nghe người khác.

Các phương pháp, kỹ thuật thu thập số liệu chủ yếu trong nghiên cứu định tính.

PHƯƠNG PHÁP PHỎNG VẤN SÂU (In-depth Interview)

1. Phỏng vấn không cấu trúc (Unstructure Interview)

Là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong nghiên cứu xã hội học. Khi sử dụng phương pháp này nghiên cứu viên (NCV) phải nhớ một số chủ đề cần phỏng vấn và có thể sử dụng một danh mục chủ đề để khỏi bỏ sót trong khi phỏng vấn. Nghiên cứu viên có thể chủ động thay đổi thứ tự của các chủ đề tuỳ theo hoàn cảnh phỏng vấn và câu trả lời của người được phỏng vấn. Phỏng vấn không cấu trúc (PVKCT) giống như nói chuyện, làm cho người được phỏng vấn cảm thấy thoải mái và cởi mở trả lời theo các chủ đề phỏng vấn. Điều cốt yếu quyết định sự thành bại của phỏng vấn không cấu trúc là khả năng đặt câu hỏi khơi gợi một cách có hiệu quả, tức là khả năng kích thích người trả lời cung cấp thêm thông tin.

Ưu điểm của PVKCT là cho phép nghiên cứu viên linh hoạt thay đổi cấu trúc phỏng vấn tùy theo ngữ cảnh và đặc điểm của đối tượng. PVKCT đặc biệt có ích trong những trường hợp khi mà NCV cần phỏng vấn những người cung cấp thông tin nhiều lần, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Phỏng vấn không cấu trúc cũng hữu ích trong những trường hợp không thể sử dụng được phỏng vấn chính thức (ví dụ khi nghiên cứu về gái mãi dâm đứng đường hoặc trẻ em lang thang ...). PVKCT đặc biệt hữu ích trong nghiên cứu các chủ đề nhạy cảm như tình dục, mãi dâm, ma túy hoặc HIV/AIDS ... Nhược điểm: Không có mẫu chuẩn bị sẵn nên mỗi cuộc phỏng vấn là một cuộc trò chuyện không lặp lại vì vậy rất khó hệ thống hoá các thông tin và phân tích số liệu.

2. Phỏng vấn bán cấu trúc (Semi-Structure Interview)

Phỏng vấn bán cấu trúc là phỏng vấn dựa theo danh mục các câu hỏi hoặc các chủ đề cần đề cập đến. Tuy nhiên thứ tự và cách đặt câu hỏi có thể tuỳ thuộc vào ngữ cảnh và đặc điểm của đối tượng phỏng vấn. Các loại phỏng vấn bán cấu trúc gồm:

Phỏng vấn sâu (In-depth Interview)

Được sử dụng để tìm hiểu thật sâu một chủ đề cụ thể, nhằm thu thập đến mức tối đa thông tin về chủ đề đang nghiên cứu. Phỏng vấn sâu sử dụng bản hướng dẫn bán cấu trúc trên cơ sở những phỏng vấn thăm dò trước đó về chủ đề nghiên cứu để có thể biết được câu hỏi nào là phù hợp.

Nghiên cứu trường hợp (Case study)

Nhằm thu thập thông tin toàn diện, có hệ thống và sâu về các trường hợp đang quan tâm. “Một trường hợp” ở đây có thể là một cá nhân, một sự kiện, một giai đoạn bệnh, một chương trình hay một cộng đồng. Nghiên cứu trường hợp đặc biệt cần thiết khi nghiên cứu viên cần có hiểu biết sâu về một số người, vấn đề và tình huống cụ thể, cũng như khi các trường hợp có nhiều thông tin hay mà có thể đem lại một cách nhìn sâu sắc về hiẹn tượng đang quan tâm.

Lịch sử đời sống(Life – History) .

Thông tin về lịch sử đời sống của cá nhân thường được thu thập qua rất nhiều cuộc phỏng vấn kéo dài (thường là phỏng vấn bán cấu trúc và không cấu trúc)

Ưu điểm của PV bán cấu trúc

- Sử dụng bản hướng dẫn phỏng vấn sẽ tiết kiệm thời gian phỏng vấn

- Danh mục các câu hỏi giúp xác định rõ những vấn đề cần thu thập thông tin nhưng vẫn cho phép độ linh hoạt cần thiết để thảo luận các vấn đề mới nảy sinh.

- Dễ dàng hệ thống hoá và phân tích các thông tin thu được

Nhược điểm: Cần phải có thời gian để thăm dò trước chủ đề quan tâm để xác định chủ đề nghiên cứu và thiết kế câu hỏi phù hợp

3. Phỏng vấn có cấu trúc hoặc hệ thống (Structure/System Interview)

Là phương pháp phỏng vấn tất cả các đối tượng những câu hỏi như nhau. Thông tin thu được bằng phương pháp này có thể bao gồm cả các con số và các dữ liệu có thể đo đếm được. Các phương pháp này được coi là một bộ phận trong nghiên cứu định tính vì chúng giúp cho việc mô tả và phân tích các đặc điểm văn hóa và hành vi của đối tượng nghiên cứu.

Các phương pháp này nhằm phát hiện và xác định rõ các phạm trù văn hóa thông qua sự tìm hiểu “những quy luật văn hóa” trong suy nghĩ của cá nhân, tìm hiểu xem họ nghĩ và biết gì về thế giới xung quan họ và cách họ tổ chức các thông tin này như thế nào.

Liệt kê tự do (Free listing)

Tách biệt và xác định các phạm trù cụ thể. NCV yêu cầu đối tượng liệt kê mọi thông tin mà họ có thể nghĩ tới trong một phạm trù cụ thể. Ví dụ, khi tìm hiểu kiến thức về các bệnh lây truyền qua đường tình dục ta có thể yêu cầu đối tượng liệt kê tên của các bệnh đó hoặc liệt kê các con đường lây nhiễm HIV ...

Phân loại nhóm (Group category)

Phương pháp này tìm hiểu kiến thức của đối tượng về các phạm trù khác nhau và mối liên hệ giữa chúng. Ví dụ, NCV có thể yêu cầu đối tượng phân loại các bệnh của đường sinh dục và các bệnh lây qua đường tình dục hoặc phân loại những tiếp xúc không gây lây nhiễm HIV và những tiếp xúc có thể làm lây nhiễm.

Phân hạng sử dụng thang điểm (Scale category)

Là phương pháp rất phổ biến trong khoa học xã hội. Các thang điểm thường được sử dụng để phân hạng các khoản mục trong một phạm trù nào đó. Thang điểm có thể là một dẫy số có thể là đồ thị. Ví dụ:

Khi tìm hiểu kiến thức của cá nhân về các biểu hiện của bệnh AIDS, sau khi đưa ra danh sách của một số triệu chứng NCV có thể sử dụng thang điểm để xác định hiểu biết của đối tượng và yêu cầu đối tượng khoanh vào số mà theo bạn biểu thị mức độ trầm trọng của bệnh AIDS:

0 1 2 3 4 5 6 7 (từ nhẹ cho đên mức độ nặng nhất) Hoặc đánh dấu trên đường thẳng

*________________________*
Nhẹ ------------------- Nặng


THẢO LUẬN NHÓM (Group Discussion)

Một điều cần lưu ý là đơn vị nghiên cứu và phân tích trong thảo luận nhóm sẽ là nhóm chứ không phải là cá nhân.

1. Thảo luận nhóm tập trung (FGD: Focus Group Discussion)

Một nhóm tập trung thường bao gồm từ 6 đến 8 người có chung một số đặc điểm nhất định phù hợp với chủ đề cuộc thảo luận, ví dụ cùng một trình độ học vấn, cùng một độ tuổi, cùng một giới tính ...

Thảo luận nhóm tập trung thường được sử dụng để đánh giá các nhu cầu, các biện pháp can thiệp, thử nghiệm các ý tưởng hoặc chương trình mới, cải thiện chương trình hiện tại và thu thập các thông tin về một chủ đề nào đó phục vụ cho việc xây dựng bộ câu hỏi có cấu trúc ...

Ưu điểm của phương pháp

- Cung cấp một khối lượng thông tin đáng kể một cách nhanh chóng và rẻ hơn so với phỏng vấn cá nhân.
- Rất có giá trị trong việc tìm hiểu quan niệm, thái độ và hành vi của cộng đồng
- Hỗ trợ việc xác định những câu hỏi phù hợp cho phỏng vấn cá nhân

Nhược điểm

- Nghiên cứu viên khó kiểm soát động thái của quá trình thảo luận so với phỏng vấn cá nhân.
- Thảo luận nhóm tập trung không thể đưa ra tần suất phân bố của các quan niệm và hành vi trong cộng đồng.
- Kết quả TLNTT thường khó phân tích hơn so với phỏng vấn cá nhân.
- Số lượng vấn đề đặt ra trong TLNTT có thể ít hơn so với PV cá nhân
- Việc chi chép lại thông tin và chi tiết của cuộc thảo luận nhóm tập trung rất khó, nhất là việc gỡ băng ghi âm.

2. Thảo luận nhóm không chính thức (Informal Group Discussion)

Ví dụ Thảo luận với các nhóm tự nhiên như nhóm thành viên gia đình, nhóm đàn ông uống trà trong quán, nhóm phụ nữ đi khám bệnh ... Phương pháp này dùng kỹ thuật phỏng vấn bán cấu trúc hoặc phỏng vấn tự do. Phương pháp này dễ dàng thực hiện nhưng ít có tính hệ thống do đó khó sử dụng để so sánh giữa các nhóm. Phương pháp này có giá trị đối với các can thiệp đã được lập kế hoạch từ trước.

PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT (Observation)

Phương pháp phỏng vấn cung cấp các thông tin về quan niệm, thái độ, giá trị và hành vi tự thuật của đối tượng. Các phương pháp quan sát cung cấp thông tin về hành vi thực cho phép hiểu rõ hơn hành vi được nghiên cứu.

Người ta có thể quan sát trực tiếp các hành vi thực tế hoặc có thể quan sát các dấu hiệu của hành vi. Đôi khi chỉ có thể quan sát gián tiếp dấu hiệ phản ảnh hành vi. Ví dụ muốn nghiên cứu hành vi sử dụng bao cao su trong số gái mãi dâm, NCV không thể trực tiếp quan sát hành vi thực tế sử dụng bao cao su như thế nào. Cũng không thể chỉ dựa vào câu trả lời của các cô gái mãi dâm về số bao cao su mà họ đã sử dụng. Do đó NCV có thể đếm số bao cao su được vứt trong các thùng rác sau mỗi buổi sáng hay sau một khoảng thời gian nhất định nào đó.

Các hình thức quan sát

Quan sát tham gia/ hoặc không tham gia.

Quan sát công khai/ hay bí mật.

Giải thích rõ mục tiêu của quan sát/ hoặc không nói rõ về mục đích thực của quan sát cho đối tượng bị quan sát biết.

Quan sát một lần/Quan sát lặp lại .

Quan sát một hành vi/Quan sát tổng thể .

Quan sát thu thập số liệu định tính, mở và mô tả/Quan sát thu thập số liệu định lượng dựa trên danh mục các điểm cần quan sát.


PHƯƠNG PHÁP ĐI DẠO (Transect Walk)


Là công cụ mô tả và chỉ ra vị trí và phân bố của các nguồn tài nguyên như đất, ruộng đồng, đồi núi, hồ, thảm thật vật, sông suối, nông trường, chuồng trại gia súc và các hình thái kinh tế-xã hội, văn hóa, tập quán cũng như các hoạt động thường nhật khác của cộng đồng… để xác định, giải thích có hay không sự ảnh hưởng, mối liên quan giữa các yếu tố trên với vấn đề sức khỏe hay những vấn đề khác mà cộng đồng đang đối mặt. Trong phương pháp này, người nghiên cứu cùng với một vài thành viên của cộng đồng (thường là người am hiểu, sống lâu năm tại cộng đồng này) cùng đi bộ dạo quanh khu vực nghiên cứu để ghi chép, thảo luận, mô tả về sự phân bố các yếu tố địa lí, sinh cảnh, hiện tượng tự nhiên, xã hội….Những dữ liệu này rất quan trọng cùng với nguồn số liệu khác góp phần trả lời cho câu hỏi nghiên cứu.

Thay cho lời kết.

Nghiên cứu định tính là những nghiên cứu thu được các kết quả không sử dụng những công cụ đo lường, tính toán. Nói một cách cụ thể hơn NCĐT là những nghiên cứu tìm biết những đặc điểm, tính chất của đối tượng nghiên cứu cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi của đối tượng nghiên cứu trong những hoàn cảnh cụ thể. Trong khi nghiên cứu định lượng đi tìm trả lời cho câu hỏi bao nhiêu, mức nào, độ lớn của vấn đề (how many, how much) thì NCĐT đi tìm trả lời cho câu hỏi nguyên nhân tại sao (Why), ai (Who), cái gì (What), như thế nào (How), ở đâu (Where)…giúp ta đi sâu tìm hiểu một thực trạng hay một vấn đề sức khỏe nào đó.

Danh mục sách tham khảo về nghiên cứu định tính

1. Strauss A & Corbin J (1998/2007), Basics of Qualitative Research – Techniques and Procedures for Developing Grounded Theory, 2nd ed, Thousand Oaks CA: Sage http://books.google.co.uk/books?id=w...unipPg#PPP1,M1
2. Denzin NK & Lincoln YS, ed (2005), The Sage Handbook of Qualitative Research, 3rd ed, Thousand Oaks CA: Sage.
http://books.google.co.uk/books?id=X...5GXH2A#PPT1,M1
3. May T, ed (2002), Qualitative Research in Action, London: Sage
http://books.google.co.uk/books?id=e...rRB--A#PPP1,M1
4. Marshall CM & Rossman GB (1999), Designing Qualitative Research, 3rded, Thousand Oaks CA: Sage.http://books.google.co.uk/books?id=W...It2Io#PPR10,M1
5. Czarniawska B (2004), Narratives in Social Science Research, London: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=N...Scfx3xrjuDxcac
6. De Laine M (2000), Fieldwork, Participation and Practice – Ethics and Dilemmas in Qualitative Research, London: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=2...AY7TkU#PPA5,M1
7. Dey I (1993), Qualitative Data Analysis – A user-friendly guide for social scientists, London: Routlege. http://books.google.co.uk/books?id=9...QKBFXU#PPR6,M1
8.Heaton J (2004), Reworking Qualitative Data, London: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=0...-OPgA4MMSH3fpQ
9. Woods P (1999), Successful Writing for Qualitative Researchers, London: Routledge. http://books.google.co.uk/books?id=A...e25Vhb6mtBbWEc
10. Silverman D (2006), Interpreting Qualitative Data: Methods for Analyzing Talk, Text and Interaction, 3rd ed, Newbury Park CA: Sage http://books.google.co.uk/books?id=2...d72-nU8NZ-y44c
11. Glaser B & Strauss A (1967), The Discovery of Grounded Theory: Strategies for Qualitative Research, Chicago: Aldine. http://books.google.co.uk/books?id=t...Q_6mqY#PPA2,M1
12. Yin RK (1994), Case Study Research – Design and Methods, Thousand Oaks CA: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=B...JMkGuo#PPP7,M1
13. Shekedi A (2005), Multiple Case Narrative – A Qualitative Approach to Studying Multiple Populations, Amsterdam: John Benjamins. http://books.google.co.uk/books?id=N...Erxv3n2p-4wcno
14. Ragin CC & Becker HS, ed (1992), What Is a Case? Exploring the foundations of social inquiry, New York: Cambridge Uni Press. http://books.google.co.uk/books?id=v...1Moqjs#PPR7,M1
15. Stewart DW & Shamdasani PN (1990), Focus Groups – Theory and Practice, Newbury Park CA: Sage http://books.google.co.uk/books?id=R...fQT9VJBm0XpdCQ
16. Morgan DL (1998), The Focus Group Guidebook – FG Kit 1, Thousand Oaks CA: Sage.
http://books.google.co.uk/books?id=5...isuhSI#PPR1,M1
17. Ramaxanoglu C & Holland J (2002), Feminist Methodology – Challenges and Choices, London: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=P...kcezV8bMqekUHI
18. Davies CA (1999), Reflexive Ethnography – A guide to researching selves and others, London: Routlege. http://books.google.co.uk/books?id=c...dIbuISxvyM8XkE
19. Agar MH (1986), Speaking Ethnography, Newbury Park CA: Sage http://books.google.co.uk/books?id=s...W7GFo84wWP5usA
20. LeBihan J & Green K (1996), Critical Theory and Practice: A coursebook, London: Routlege. http://books.google.co.uk/books?id=1...yVBHrq7rzZK8Sk
21. Shaw I & Gould N (2001), Qualitative Research in Social Work, London: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=v...A5gNWMN8gw_C7E
22. Daymon C & Holloway I (2002), Qualitative Research Methods in Public Relations and Marketing Communications, London: Routledge. http://books.google.co.uk/books?id=B...zwMKkg9cCwdZP4
23. McNiff J (2000), Action Research in Organisations, London: Routlege. http://books.google.co.uk/books?id=B...SoEbnvSZE7o88U
24. Lee TW (1999), Using Qualitative Methods in Organizational Research, Thousand Oaks CA: Sage. http://books.google.co.uk/books?id=i...Av-XP0DHh5Pvj4

(Hình ảnh trong bài là: Thảo luận nhóm tập trung và Phỏng vấn sâu với người dân tộc Mon tại biên giới Thái Lan-Myanmar, tỉnh Kanchanaburi -Thái Lan.)

Wednesday, November 2, 2011

Nghiên cứu hành động trong giáo dục (2)

(tt)
Các cách tiếp cận NCHĐ

NCHĐ được phân loại theo 4 cách tiếp cận khác nhau. Các cách tiếp cận này giống nhau về phương pháp thực hiện (thu thập, phân tích, diễn giải dữ liệu) nhưng khác nhau về mục đích và mục tiêu nghiên cứu. Dưới đây là bảng so sánh tóm tắt những điểm khác biệt của 4 cách tiếp cận này, theo cách phân loại của Hendricks (2009:9-10, dẫn lại theo Ary 2010):

NCHĐ hợp tác (collaborative action research): Bao gồm nhiều thành phần khác nhau cùng tham gia. Ví dụ, trong bối cảnh trường học thì những người thực hiện nghiên cứu có thể bao gồm cả nhà quản lý lẫn giáo viên. Mục đích của loại nghiên cứu này là để chia sẻ những hiểu biết, kinh nghiệm và tạo sự đối thoại giữa các bộ phận khác nhau.

NCHĐ phê phán (critical action research): Có sự tham gia rộng rãi của mọi thành phần. Chẳng hạn trong bối cảnh giáo dục đại học, người tham gia có thể là nhà quản lý, giảng viên, nhà nghiên cứu giáo dục, và cả các thành viên đại diện cộng đồng. Mục đích của loại nghiên cứu này là để lượng giá (evaluate) những thay đổi xã hội và sử dụng kết quả nghiên cứu để đem lại những thay đổi trong xã hội.

NCHĐ học đường (classroom action research): Những nghiên cứu riêng của giáo viên để áp dụng trong bối cảnh giảng dạy của mình. Có thể bao gồm một nhóm giáo viên dạy trong những bối cảnh tương tự, cùng phối hợp để tìm hiểu một vấn đề chung. Mục đích là để cải thiện việc giảng dạy trong trường, lớp.

Nghiên cứu hành động tham dự (participatory action research): Có sự tham gia và hợp tác của tất cả các bên có liên quan trong một quá trình xã hội (social process) nào đó. Mục đích là để tìm hiểu các thực tiễn đang diễn ra trong một cấu trúc xã hội (có tính khai phóng); thách thức sự khác biệt về quyền lực và cách làm việc không hiệu quả (có tính phê phán); và để đem lại những thay đổi về lý luận và thực tiễn (có tính cải cách).

Lợi ích của NCHĐ

NCHĐ mang lại nhiều lợi ích khác nhau, như có thể liệt kê dưới đây:

- Chuyên nghiệp hóa hoạt động của các nhà giáo dục và thúc đẩy sự phát triển chuyên môn
- Trao quyền cho giáo viên và tạo ra một tiếng nói trong ngành của các nhà giáo dục
- Phát triển tri thức có liên quan trực tiếp đến thực tiễn và chú trọng việc cải thiện thực tiễn
- Thúc đẩy sự phản tỉnh (reflection) và sử dụng thông tin để ra quyết định tốt hơn
- Nuôi dưỡng tinh thần cởi mở đối với những ý tưởng mới cũng như khuyến khích sự sáng tạo
- Khuyến khích sự hợp tác và phát triển những cộng đồng học tập
- Khuyến khích việc tư duy lại quá trình đánh giá giáo viên và học sinh/sinh viên
- Cung cấp những nguồn dữ liệu phong phú để có thể sử dụng trong việc cải thiện nhà trường
- Khơi dậy tinh thần chuyên môn, làm cho công việc hàng ngày trở nên thú vị và đáng giá
- Tạo điều kiện phát biểu về những lựa chọn khả dĩ và những phương pháp có thể áp dụng
- Tăng cường hiểu biết và tôn trọng giữa các giáo viên, học sinh, phụ huynh và nhà quản lý.

Lợi ích cốt lõi của NCHĐ, theo tác giả Ary, là lấp dần khoảng trống giữa lý luận và thực tiễn. Khoảng trống này là do các tài liệu về lý luận thường được viết rất khó đọc đối với những người hoạt động thực tiễn vì chúng sử dụng những đặc ngữ chuyên môn (jargon), hoặc có thể hiểu nhưng lại không thể áp dụng trong bối cảnh địa phương.

(còn tiếp)

Thursday, September 29, 2011

Grounded theory là gì?

Có một từ mà bất kỳ ai đã từng trải qua một chương trình đào tạo SĐH trong các ngành KHXH-NV ở các nước nói tiếng Anh hẳn đều đã nghe qua, đó là từ “grounded theory”. Một từ rất hay gặp trong các nghiên cứu định tính. Vậy nó là cái gì thế, và dịch sang tiếng Việt như thế nào nhỉ?

Trước hết, cần giải thích grounded theory có nghĩa là gì. Xin đọc định nghĩa dưới đây, trích trong bài viết của The Yeshiva University Fatherhood Project (2001):

The grounded theory method allows the researcher to begin a research study without having to test a hypothesis. Instead, it allows her to develop hypotheses by listening to what the research participants say. Because the method involves developing hypotheses after the data are collected, it is called hypothesis-generating research rather than hypothesis-testing research. The grounded theory method uses two basic principles: (1) questioning rather than measuring, and (2) generating hypotheses using theoretical coding.

Tóm tắt:
Đây là một phương pháp cho phép nhà nghiên cứu tiến hành nghiên cứu mà không cần có trước ít nhất là một giả thuyết nghiên cứu. Những giả thuyết này sẽ được hình thành dần trong quá trình tiếp cận vấn đề, và cách nghiên cứu này được gọi là phương pháp “tạo sinh giả thuyết” (hypothesis generating) thay vì “kiểm nghiệm giả thuyết” (hypothesis testing) như trong cách tiếp cận định lượng. Grounded theory sử dụng hai nguyên tắc chính: (1) phát vấn (questioning) thay vì đo lường (measuring), và (2) tạo sinh giả thuyết bằng cách mã hóa theo lý luận (theoretical coding).

Hừm, nghe lùng bùng lỗ tai, phải không các bạn? Thôi thì cứ đọc đi, rồi sẽ quen. Nói nôm na bằng lời của tôi: các bạn cứ việc bắt đầu một cách lơ mơ, không lý luận và không giả thuyết, nhưng phỏng vấn, quan sát đến đâu thì hệ thống hóa đến đó, và suy luận để đưa ra những câu trả lời tạm thời. Sau đó lại tiếp tục quan sát, mã hóa những gì quan sát được, và tiếp tục chỉnh sửa những giả thuyết đã hình thành trước đó để xây dựng giả thuyết mới, sao cho cuối cùng cảm thấy đã đủ thông tin để kết luận điều mình muốn kết luận.

Vậy GT dịch sang tiếng Việt ra sao? Tra trên google, tôi thấy ít nhất là có ba cách dịch dưới đây:
i. Lý thuyết nền (hoặc nền tảng)
ii. Lý thuyết cơ sở
iii. Lý thuyết cơ bản

Tùy các bạn chọn nhé; tôi thì thấy cách dịch đầu tiên là tốt nhất.
-------------
Cập nhật ngày 27/10/2012

Hôm nay mở link dẫn đến bài đọc mà tôi đã dẫn ở trên thì không được, link hỏng, phải đi tìm và sửa lại. E rằng sau này link lại thay đổi và lại mất dấu vết nên tôi chép lại toàn bài viết mà tôi đã trích dẫn ở trên để lưu. Dưới đây:


Bronx, NY, Nov 1, 2003 — 2003 marks the ninth year of the Yeshiva Fatherhood Project, a qualitative study of the subject experiences of fathers from several subcultures in the U. S. To date, we have interviewed more than 400 fathers in focus groups. We have also developed a standardized procedure for designing a qualitative research study, coding and analyzing the data. This summer, we published a book outlining our method (Auerbach & Silverstein, 2003). Because qualitative research lends itself particularly well to clinical and applied research, we thought our alumni might be interested in learning more about it.
Qualitative research is hypothesis-generating rather than hypothesis-testing research. As a result, qualitative studies are conducted and evaluated differently than quantitative ones. In hypothesis-testing research, the hypotheses are stated in terms of the relations between independent and dependent variables. The research goal is to operationalize the variables in order to test whether the hypothesized relations exist. In hypothesis-generating research, the goal is to discover the appropriate variables (called theoretical constructs), and the abstract pattern describing the relations between these constructs. Thus the goal of qualitative research is to formulate theory.
Qualitative research is the method of choice when investigating an area about which not enough is known to formulate meaningful hypotheses. When we began the Yeshiva Fatherhood Project in 1994, there was very little empirical research on the subjective experiences of fathers. Much of the research that did exist was matricentric, comparing fathering to maternal behaviors. Within this context, we did not know enough about fathering to formulate meaningful hypotheses. This was particularly true about African American fathers, Latino fathers, and gay fathers.
Because one does not know enough to formulate meaningful hypotheses, the participants are used as a source of knowledge. The researcher asks generalized questions, and develops hypotheses based on the answers to their questions. Thus the hypotheses are developed after the data is collected.
In hypothesis-testing research, the goal is to use random sampling from as large and as diverse a population as possible, in order to assure that the research sample is representative and therefore that the findings will be generalizable. From this perspective, a small, self-selected sample, such as many of the groups of fathers we interviewed, would not be representative, and therefore no useful conclusions can be drawn from it.
However, representativeness is not the appropriate criterion for evaluating a qualitative study. The aim of qualitative research is to develop transferable theories, rather thangeneralizable hypotheses. This means that the abstract patterns described by a study’s theoretical constructs will be applicable to other research samples, even though the specific content of the pattern may not be.
Moreover, random sampling is theoretically impossible in studies of culturally diverse and/or marginalized groups. Members of these subcultures are not as likely to be selected by a random sampling process as are members of majority or mainstream groups. Rather, a subculture reflects an elaborate social network that researchers cannot enter at random. They must begin by contacting respected members of the culture, gain their trust, and build contacts from there. This is particularly true of groups like the gay fathers or divorced fathers, many of whom prefer to remain invisible. The reality of having to deal with the complications of outsider/insider status effectively rules out random sampling.
There are many qualitative alternatives to random sampling. The one that we used was a combination of convenience and snowball sampling. Convenience sampling means recruiting individuals that are accessible, for example members of parenting support groups. Snowball sampling means starting with a convenience sample of a few research participants and asking them to suggest others. These, in turn, are asked to suggest more participants. In this manner, the research sample grows from the first few researchparticipants, the way a snowball enlarges while rolling down a hill.
In hypothesis-testing research, the size of your sample is determined in advance by using statistical power analysis. In hypothesis-generating research, in contrast, the size of your sample cannot be determined in advance. It is determined instead by a procedure calledtheoretical saturation. After the first study, each new research sample is used to refine your theoretical constructs, provide new information and new insights into your theory. After several studies with new samples, additional research samples no longer add to your understanding, but simply confirm what you already know. This point, when additional samples are not providing any new information, is defined as theoretical saturation.
Thus, both the quantitative and qualitative paradigms acknowledge that more research is needed before the results of any single study can be considered accurate. However, a quantitative approach would conclude that, if the sample is small and self-selected, the participants are not a representative sample of fathers, and therefore, no useful knowledge can be drawn from this sample. The qualitative paradigm, in contrast, values the knowledge that emerges from even very small, self-selected samples because hypotheses can be generated from these studies.
Our qualitative approach has resulted in many journal articles, several book chapters, numerous presentations, including three Continuing Education Workshops at American Psychological Conventions, and most recently our “How-to” book. We have more articles forthcoming, and plan to do another workshop at APA in Hawaii this summer. If you would like to learn more about qualitative research contact us at LBSilverst@aol.ocm or Carlauer@aol.com.
©An introduction to coding and analyzing data in qualitative research.

----
Nguồn: http://blogs.yu.edu/news/2003/11/01/2850/ (truy cập 27/10/2012)

Saturday, March 12, 2011

Free download: "Phương pháp nghiên cứu khoa học"

Free download mà tôi giới thiệu là một sản phẩm của sáng kiến Học liệu mở Việt Nam. Tôi đã vào và download được, chưa đọc kỹ nhưng cũng thấy là nó cần thiết cho các bạn học viên cao học của tôi cũng như những người khác đang tập tành nghiên cứu khoa học. Vì vậy, xin được giới thiệu nó ở đây.

Các bạn có thể vào đây để download nó. Đường link tôi đưa là nằm trong google docs của cá nhân tôi. Khi các bạn đã download xuống rồi thì sẽ thấy địa chỉ gốc để download, đồng thời là địa chỉ để đưa vào danh mục tài liệu tham khảo nếu bạn sử dụng.

Chúc các bạn tìm được những điều mình cần trong tài liệu ấy, và có những trao đổi (qua mail, qua comments trên blog, hoặc trực tiếp) với mọi người về nội dung của tài liệu nhé.

Wednesday, February 9, 2011

Hai tài liệu đáng đọc về nghiên cứu khoa học giáo dục

Khá lâu rồi tôi không có entry mới nào, vì nhiều lẽ, trong đó có một lý do là tôi bận quá. Việc gia đình, rồi đi dạy thêm, rồi việc cơ quan, việc cá nhân vv khiến tôi không còn hơi sức đâu mà viết, dù có nhiều điều muốn viết.

Entry ngắn này chỉ nhằm giới thiệu 2 tài liệu mà tôi tình cờ tìm được trên trang mạng của Dự án giáo dục Việt-Bỉ, liên quan đến phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục. Những tài liệu này viết bằng ngôn ngữ thân thiện với người sử dụng, không đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về nghiên cứu khoa học, nhưng vẫn đầy đủ và hữu ích, rất phù hợp cho các sinh viên khối ngành sư phạm và các giảng viên, giáo viên muốn tự thực hiện những nghiên cứu nhỏ để giải quyết những vấn đề mà mình gặp phải hàng ngày trong nghề giáo.

Các bạn đọc dưới đây nhé!

-----
Nguồn truy cập tài liệu: http://atl.edu.net.vn/web/public/classroom-action-research

Khi vào trang này các bạn sẽ thấy 2 tài liệu có tên như sau:

1. Tài liệu hướng dẫn đào tạo viên về NCKH ứng dụng
2. Tìm hiểu về nghiên cứu tác động trong giáo dục

Hai tài liệu này được dùng bổ sung cho nhau, trong đó tài liệu số 2 là tài liệu chính được sử dụng cho tất cả mọi người, còn tài liệu số 1 là tài liệu hướng dẫn dành cho "đào tạo viên", tức là dành cho người đứng lớp, hướng dẫn những người khác sử dụng tài liệu số 2.

Mô tả tóm tắt nội dung các tài liệu

1. Tài liệu chính (số 2)

Dài 94 trang, gồm 6 chương, được liệt kê dưới đây:

- Tìm hiểu về nghiên cứu tác động trong giáo dục. Chương này nêu 6 bước trong quá trình nghiên cứu tác động giáo dục, đó là (1) hiện trạng; (2) giải pháp thay thế; (3) thiết kế; (4) đo lường; (5) phân tích; và (6) tổng hợp và báo cáo kết quả.

- Vấn đề, giả thuyết và thiết kế. Chwong này đặc biệt quan trọng đối với những ai mới bắt đầu nghiên cứu, vì thông thường những người mới nghiên cứu hay rơi vào tình trạng không xác định được vấn đề, không có giả thuyết để kiểm nghiệm, hoặc không có thiết kế cho quá trình nghiên cứu của mình. Một chương viết rất xuất sắc, theo tôi.

- Thu thập dữ liệu đáng tin cậy. Cũng là một chương rất hay, vì sau khi có được thiết kế nghiên cứu rồi thì sự thành công của một nghiên cứu chủ yếu nằm ở chỗ nhà nghiên cứu có thu thập được dữ liệu đáng tin cậy hay không. Đặc biệt, chương này rất cần thiết cho sv của ngành đo lường - đánh giá trong giáo dục, vì nó nói về đo đạc.

- Phân tích dữ liệu. Nói về các kỹ thuật phân tích. Cần thiết cho những người chuyên làm việc trong các bộ phận "nghiên cứu nội bộ" (institutional research) trong trường đại học, hoặc nói theo kiểu VN thì đó là những người làm trong bộ phận đảm bảo chất lượng của các trường. Chương này cũng cần thiết cho sv ngành đo lường - đánh giá trong giáo dục, vì nó liên quan đến việc xử lý các số liệu đo đạc.

- Báo cáo nghiên cứu tác động (chương 5) và Lập kế hoạch nghiên cứu tác động (chương 6). Là những chương giúp hoàn chỉnh quá trình nghiên cứu để có tính chuyên nghiệp (để có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp hoặc báo cáo nghiệm thu đề tài).

2. Tài liệu hướng dẫn dành cho đào tạo viên (tài liệu số 1):

Dài 59 trang, chủ yếu cung cấp thêm thông tin (ví dụ cụ thể, hoặc mở rộng thảo luận) cho các đào tạo viên để sử dụng tài liệu số 1. Nếu các bạn tự học, thì tốt nhất là sử dụng tài liệu số 2, rồi khi có vấn đề không rõ thì tìm đọc thêm tài liệu số 1 này.

In a word: đây là 2 tài liệu rất tốt, rất đáng đọc! Các bạn cần download nó, lưu nó lại ở đâu đó, và sử dụng làm cẩm nang nghiên cứu khoa học. Và chúng ta cũng nên cám ơn Dự án Việt - Bỉ đã biên soạn tài liệu này cho chúng ta sử dụng, các bạn nhé!

Saturday, November 27, 2010

Triết học: tư biện, nội quan, thực nghiệm, và điền dã

Entry này nhằm viết tiếp entry mà tôi đã đưa ra hôm qua về "triết học điền dã". Tựa của entry này lạ lùng quá, và đầy các từ ngữ nghe "lùng bùng lỗ tai", phải không các bạn?

Trước hết, hãy giải thích các từ ngữ "lùng bùng lỗ tai" kia. Theo tôi, cách giải thích dễ nhất là cho từ tương đương bằng tiếng Anh. Lý do là vì tiếng Anh, theo tôi, là một ngôn ngữ thuận tiện nhất cho việc tra cứu - hệ thống từ điển phổ thông, từ điển chuyên ngành, từ điển bách khoa, cũng như tạp chí chuyên môn, rồi wikipedia bằng tiếng Anh vv, tất cả đều sẵn sàng và đầy đủ hơn bất kỳ ngôn ngữ nào.

Nó cũng là ngôn ngữ phổ biến nhất nữa, nên ai cũng đọc được. Ngoài ra, nó là ... ngoại ngữ duy nhất mà tôi sử dụng được thành thạo (hic hic, cũng muốn học thêm một ngoại ngữ khác nhưng ... no time, and no money!!!).

Các từ tương đương trong tiếng Anh đây:

- Tư biện = speculative (adj); các từ liên quan: speculate (v); speculation (n)

- Nội quan = introspective (adj); các từ liên quan: introspection (n) (từ này là từ vay mượn, không có động từ introspect, các bạn ạ!)

- Thực nghiệm = experimental (adj); các từ liên quan: experiment (v); experiment (n)

- Điền dã = field (noun as adjective); ví dụ: field methods = các phương pháp điền dã; field experience = kinh nghiệm điền dã.

Ngoài ra, tôi nghĩ cũng cần giải thích nghĩa các từ tiếng Việt, vì có thể một số bạn trẻ sẽ không rõ nghĩa của những từ này. Những định nghĩa dưới đây được cung cấp bởi cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa - Thông tin (1990):

- Tư biện = chỉ đơn thuần suy nghĩ, không dựa vào kinh nghiệm thực tiễn. vd những kiến giải nặng về tư biện; đầu óc tư biện (NNY 1990, trang 1756, mục từ thứ 3 từ trên xuống).

- Nội quan --> không có trong từ điển NNY, mà chỉ có nghĩa khác liên quan đến đông y. Tuy nhiên, từ này được dùng rất phổ biến trong tâm lý học, và có thể dễ dàng tìm thấy nghĩa của từ này khi gõ "introspection" và "nội quan" vào trong google search. Ví dụ, từ điển tra từ trên mạng cung cấp định nghĩa sau: introspection: Sự tự xem xét nội tâm. Nguồn: tratu.vn/dict/en_vn/Introspection.

- Thực nghiệm = tạo ra những biến đổi nhất định của sự vật để xem xét những hiện tượng nào đó hoặc kiểm tra tính đúng sai của các lý thuyết, của những ý kiến, gợi ý mới. vd: phương pháp thực nghiệm (NNY 190, trang 1616, mục từ thứ 4 từ trên xuống).

Nhân tiện, xin nói thêm: trong tiếng Việt, từ "thực nghiệm" còn được dùng để dịch từ "empirical" trong tiếng Anh, song song với từ "kinh nghiệm". Sự khác biệt giữa "empirical" và "experimental" là ở chỗ empirical có nghĩa rộng hơn vì nó chỉ bất cứ cái gì đã được kinh qua, trải nghiệm, dù đó là trải nghiệm tự nhiên hoặc là trải nghiệm do cố tình trong một cuộc thí nghiệm (experiment).

Như vậy, nếu dùng "thực nghiệm" theo nghĩa tương đương với "empirical" thì nó khá gần với từ "field" trong cụm từ "field experience".

- Điền dã = (1) nơi đồng ruộng, nông thôn; (2) nơi, địa hình thực tế ở xa thành phố, là nơi tiến hành điều tra khảo sát trong khoa học (NNY 1990, trang 633, mục từ cuối cùng).

Nói thêm chút: từ "điền dã", tiếng Anh là field, vốn xuất phát từ nghiên cứu dân tộc học (ethnography), nên nghe nó có chút gì ... ruộng đồng (điền) và hoang dã (dã) (thì tiếng Anh là field mà!). Nhưng sau này nó đã được dùng với nghĩa rộng hơn, để chỉ nơi xảy ra những gì mà người nghiên cứu muốn quan sát, thu thập dữ liệu, tương tự như từ "site" trong tiếng Anh, được dịch là "thực địa", "hiện trường".

Từ này rất hay dùng trong giáo dục, và đi thực tập tại còn được gọi là đi để có "field experience". Ví dụ như ở đây này. http://www.marist.edu/careerservices/fea.html.

Vì vậy, đôi khi field method cũng được dịch là "phương pháp thực địa" hoặc "nghiên cứu hiện trường", bên cạnh thuật ngữ kinh điển thường gặp là "nghiên cứu điền dã".

Rồi, tạm như thế. Mới chỉ là giải thích cái tựa là đã hết thời gian (và hết vốn để viết) rồi! Tôi sẽ viết tiếp về vấn đề này trong entry sau. Các bạn chờ đọc và tranh luận nhé!

Sunday, February 7, 2010

Giới thiệu tài liệu "Hướng dẫn về nghiên cứu giáo dục dành cho 'người tiêu dùng'"

Tên tiếng Anh của tài liệu được giới thiệu ở đây là "Consumer's guide to education research". Có thể tìm thấy nó ở đây, trên trang web của Trung tâm giáo dục công (tiếng Anh là Center for Public Education), đơn vị nghiên cứu của Hiệp hội hiệu trưởng các trường trung học toàn liên bang (National School Board Association, viết tắt là NSBA), một tổ chức xã hội nghề nghiệp của Mỹ. Nếu muốn biết thêm về NSBA xin vào trang web của nó, ở đây.

'Người tiêu dùng' của các công trình nghiên cứu giáo dục, đó là tất cả chúng ta. Bởi vì dù ở vai trò nào - nhà chính sách, nhà quản lý, nhà tuyển dụng, nhà giáo, người học, phụ huynh - mọi người đều có mối quan tâm đến các vấn đề giáo dục. Liệu có đúng là khi tăng học phí đại học thì chất lượng giáo dục sẽ tăng lên hay không? Phải chăng chất lượng đào tạo tiến sĩ kém là do NCS đa số học bán thời gian, nên bây giờ cần đưa ra quy định buộc các NCS phải học toàn thời gian? Đại loại những câu hỏi như thế.

Hiện nay, giáo dục Việt Nam đang rơi vào một cuộc khủng hoảng thật sự, như báo chí đã từng nêu trong nhiều năm qua. Nhiều chủ trương, chính sách, quy định, kế hoạch hành động, phong trào, cuộc vận động vv đã được đưa ra và thực hiện, nhưng không phải lúc nào chúng cũng đem lại hiệu quả mong muốn. Các ý kiến cũng đã được nêu, cả cùng chiều lẫn trái chiều. Nhưng dường như ai cũng có phần đúng, nên cuối cùng không ai biết được là ai đúng ai sai. Mọi việc dường như ngày càng rối rắm?

Đó là lý do tại sao tất cả chúng ta đều phải có một chút hiểu biết về nghiên cứu giáo dục. Không phải để thực hiện các công trình nghiên cứu - việc ấy xin dành cho các trường đại học và các viện nghiên cứu. Mà để mọi người đều có thể hiểu và phán đoán sự hợp lý của các kết quả nghiên cứu, và có thể đưa ra những ý kiến thông minh và hợp logic để phản biện các vấn đề giáo dục Việt Nam hiện nay.

Mặt khác, tài liệu này cũng cần thiết cho các học viên cao học, các nghiên cứu sinh trong lãnh vực giáo dục để củng cố và hệ thống hóa lại kiến thức về nghiên cứu giáo dục, trước khi đi sâu vào các vấn đề lý luận và kỹ thuật sâu hơn. Nói cách khác, nó cung cấp một cái nhìn tổng quan và dễ hiểu về các vấn đề chung của việc thiết kế nghiên cứu giáo dục. Là một điều nhiều khi cũng bị bỏ quên trong giáo dục hiện nay của Việt Nam: quá chú trọng chi tiết, mà quên đi bức tranh tổng thể. Chỉ thấy cây, mà không thấy rừng.

Đọc tài liệu, các bạn sẽ được giới thiệu các khái niệm tổng quát nhất về hai cách tiếp cận định lượng và định tính trong nghiên cứu giáo dục, và các phương pháp cụ thể trong mỗi cách tiếp cận nói trên. Quan trọng hơn, là 2 phần giới thiệu thêm về các khái niệm "margin of error" (biên độ sai số) và "statistical significance" (ý nghĩa thống kê) mà tôi tin rằng có rất nhiều người chưa hiểu hết, hoặc hoàn toàn không hiểu, ý nghĩa thực tế của chúng.

Nói vắn tắt, đây là một tài liệu quan trọng mà tất cả mọi người cần đọc. Nếu những lời giới thiệu của tôi trên đây chưa đủ để thuyết phục mọi người, xin hãy đọc phần trích dịch từ đoạn đầu tiên của tài liệu nói trên ở dưới đây:
Why is it important to understand research methods? Simply put, if we want answers to certain questions, gathering information pertinent to those questions and reviewing the data can give us the best answers. Research, then, is no more than a process of acquiring information to answer questions. Education research helps answer questions we're all interested in [...]. Some people may be baffled by that the various forms of research—what they are, how they’re conducted, and what they say. With this guide, we set forth the basic concepts to unravel the mystery.

Tại sao ta cần hiểu về các phương pháp nghiên cứu? Nói vắn tắt, nếu ta có những câu hỏi cần được trả lời, thì việc thu thập thông tin liên quan đến những câu hỏi đó và xem xét các dữ kiện sẽ có thể giúp ta có được câu trả lời tốt nhất. Nghiên cứu chẳng qua chỉ là một quy trình thu thập thông tin để trả lời các câu hỏi. Nghiên cứu giáo dục giúp ta trả lời các câu hỏi mà tất cả chúng ta đều quan tâm [...]. Có người sẽ thấy rối rắm vì các phương pháp khác nhau - chúng là gì, được thực hiện ra sao, và chúng đưa ra những kết luận gì. Tài liệu hướng dẫn này nhằm giải thích những khái niệm cơ bản để làm sáng tỏ những vấn đề tưởng như bí hiểm ấy.


Vâng, xin hãy cố đọc, dù có lẽ đọc tài liệu này thì không thú vị như đọc các tin tức nóng hổi hàng ngày với các bình luận thú vị nhưng đầy cảm tính. Có lẽ việc chấn hưng giáo dục của Việt Nam cần bắt đầu với những việc làm nhỏ, rất nhỏ, nhưng đúng ngay từ đầu, như thế này.

Về phần tôi, tôi sẽ cố gắng dịch và giới thiệu dần từng phần trong tài liệu đã nêu đến các bạn, cùng với các trao đổi, bình luận về tài liệu này, có liên quan đến bối cảnh Việt Nam, trong các entry sau.


Read, and enjoy!

Tuesday, January 12, 2010

Tài liệu NCKH: Trường phái nghiên cứu định tính trong khoa học giáo dục

Chú ý:
Một sinh viên trong lớp cao học đã gửi tôi link dẫn đến
tài liệu này
(về NC định tính). Xin đưa lên đây để mọi người chú ý và lấy về tham khảo. Link: http://www2.hcmuaf.edu.vn/data/quoctuan/Phuong%20phap%20nghien%20cuu%20dinh%20tinh.pdf

--
Trong nghiên cứu giáo dục và các nghiên cứu xã hội khác, phương pháp định tính rất hay được sử dụng. Và để sử dụng phương pháp định tính theo đúng nghĩa khoa học thì không phải là chuyện đơn giản.

Tuy nhiên, như tác giả Marie C. Hoepfl đã nêu trong phần mở đầu của bài viết dưới đây, rất nhiều người đang làm việc trong lãnh vực giáo dục cần sử dụng phương pháp định tính mà không được hướng dẫn cẩn thận. Và hiểu biết của họ về phương pháp định lượng cũng rất hời hợt. Vì vậy, bài viết dưới đây là nhằm đáp ứng nhu cầu giải thích về phương pháp định tính và so sánh một chút với phương pháp định lượng để giúp mọi người có hiểu biết tốt hơn.

Tôi chép toàn văn bài viết dưới đây vào đây để lưu và dịch khi có thời gian. http://scholar.lib.vt.edu/ejournals/JTE/v9n1/hoepfl.html. Các bạn muốn đọc ở website gốc thì click vào đây.

Bài viết này sẽ được dịch dần, bắt đầu trong vài ngày tới.

--
Choosing Qualitative Research: A Primer for Technology Education Researchers
Marie C. Hoepfl
A number of writers have commented on the dearth of substantive research within the field of technology education, and point to the expansion of its research agenda as a means of strengthening the discipline. Waetjen, in his call for good research in technology education, states that "the plea is to use experimental type research as much as possible" (1992, p. 30). Interestingly, the three areas of research need outlined in his essay would all lend themselves to alternative methodologies, including qualitative methodologies.

More recently, others have called for an expansion in the types of research methods used. Of the 220 reports included in Zuga's review of technology education-related research (1994), only 16 are identified as having used qualitative methods, and Zuga notes that many of those studies were conducted outside the United States. Johnson (1995) suggests that technology educators "engage in research that probes for deeper understanding rather than examining surface features." He notes that qualitative methodologies are powerful tools for enhancing our understanding of teaching and learning, and that they have "gained increasing acceptance in recent years" (p. 4).

There are compelling reasons for the selection of qualitative methodologies within the educational research arena, yet many people remain unfamiliar with these methods. Researchers trained in the use of quantitative designs face real challenges when called upon to use or teach qualitative research (Stallings, 1995). There is, however, a growing body of literature devoted to qualitative research in education, some of which is synthesized here. The goals of this article are to elaborate on the reasons for choosing qualitative methodologies, and to provide a basic introduction to the features of this type of research.

Qualitative Versus Quantitative Research Paradigms

Researchers have long debated the relative value of qualitative and quantitative inquiry (Patton, 1990). Phenomenological inquiry, or qualitative research, uses a naturalistic approach that seeks to understand phenomena in context-specific settings. Logical positivism, or quantitative research, uses experimental methods and quantitative measures to test hypothetical generalizations. Each represents a fundamentally different inquiry paradigm, and researcher actions are based on the underlying assumptions of each paradigm.

Qualitative research, broadly defined, means "any kind of research that produces findings not arrived at by means of statistical procedures or other means of quantification" (Strauss and Corbin, 1990, p. 17). Where quantitative researchers seek causal determination, prediction, and generalization of findings, qualitative researchers seek instead illumination, understanding, and extrapolation to similar situations. Qualitative analysis results in a different type of knowledge than does quantitative inquiry.

Eisner points out that all knowledge, including that gained through quantitative research, is referenced in qualities, and that there are many ways to represent our understanding of the world:

There is a kind of continuum that moves from the fictional that is "true"-the novel for example-to th e highly controlled and quantitatively described scientific experiment. Work at either end of this continuum has the capacity to inform significantly. Qualitative research and evaluation are located toward the fictive end of the continuum without being fictional in the narrow sense of the term Eisner, 1991, pp. 30-31).

This sentiment echoes that of an earlier writer. Cronbach (1975) states that "the special task of the social scientist in each generation is to pin down the contemporary facts. Beyond that, he shares with the humanistic scholar and the artist in the effort to gain insight into contemporary relationships" (p. 126).

Cronbach claims that statistical research is not able to take full account of the many interaction effects that take place in social settings. He gives examples of several empirical "laws" that do not hold true in actual settings to illustrate this point. Cronbach states that "the time has come to exorcise the null hypothesis," because it ignores effects that may be important, but that are not statistically significant (1975, p. 124). Qualitative inquiry accepts the complex and dynamic quality of the social world.

However, it is not necessary to pit these two paradigms against one another in a competing stance. Patton (1990) advocates a "paradigm of choices" that seeks "methodological appropriateness as the primary criterion for judging methodological quality." This will allow for a "situational responsiveness" that strict adherence to one paradigm or another will not (p. 39). Furthermore, some researchers believe that qualitative and quantitative research can be effectively combined in the same research project (Strauss and Corbin, 1990; Patton, 1990). For example, Russek and Weinberg (1993) claim that by using both quantitative and qualitative data, their study of technology-based materials for the elementary classroom gave insights that neither type of analysis could provide alone.

Basis for the Use of a Qualitative Methodology

There are several considerations when deciding to adopt a qualitative research methodology. Strauss and Corbin (1990) claim that qualitative methods can be used to better understand any phenomenon about which little is yet known. They can also be used to gain new perspectives on things about which much is already known, or to gain more in-depth information that may be difficult to convey quantitatively. Thus, qualitative methods are appropriate in situations where one needs to first identify the variables that might later be tested quantitatively, or where the researcher has determined that quantitative measures cannot adequately describe or interpret a situation. Research problems tend to be framed as open-ended questions that will support discovery of new information. Greene's 1994 study of women in the trades, for example, asked " What personal characteristics do tradeswomen have in common? In what way, if any, did role models contribute to women's choices to work in the trades?"

(p. 524a).

The ability of qualitative data to more fully describe a phenomenon is an important consideration not only from the researcher's perspective, but from the reader's perspective as well. "If you want people to understand better than they otherwise might, provide them information in the form in which they usually experience it" (Lincoln and Guba, 1985, p. 120). Qualitative research reports, typically rich with detail and insights into participants' experiences of the world, "may be epistemologically in harmony with the reader's experience" (Stake, 1978, p. 5) and thus more meaningful.

Features of Qualitative Research

Several writers have identified what they consider to be the prominent characteristics of qualitative, or naturalistic, research (see, for example: Bogdan and Biklen, 1982; Lincoln and Guba, 1985; Patton, 1990; Eisner, 1991). The list that follows represents a synthesis of these authors' descriptions of qualitative research:

1. Qualitative research uses the natural setting as the source of data. The researcher attempts to observe, describe and interpret settings as they are, maintaining what Patton calls an "empathic neutrality" (1990, p. 55).

2. The researcher acts as the "human instrument" of data collection.

3. Qualitative researchers predominantly use inductive data analysis.

4. Qualitative research reports are descriptive, incorporating expressive language and the "presence of voice in the text" (Eisner, 1991, p. 36).

5. Qualitative research has an interpretive character, aimed at discovering the meaning events have for the individuals who experience them, and the interpretations of those meanings by the researcher.

6. Qualitative researchers pay attention to the idiosyncratic as well as the pervasive, seeking the uniqueness of each case.

7. Qualitative research has an emergent (as opposed to predetermined) design, and researchers focus on this emerging process as well as the outcomes or product of the research.

8. Qualitative research is judged using special criteria for trustworthiness (these will be discussed in some detail in a later section).

Patton (1990) points out that these are not "absolute characteristics of qualitative inquiry, but rather strategic ideals that provide a direction and a framework for developing specific designs and concrete data collection tactics" (p. 59). These characteristics are considered to be "interconnected" (Patton, 1990, p. 40) and "mutually reinforcing" (Lincoln and Guba, 1985, p. 39).

It is important to emphasize the emergent nature of qualitative research design. Because the researcher seeks to observe and interpret meanings in context, it is neither possible nor appropriate to finalize research strategies before data collection has begun (Patton, 1990). Qualitative research proposals should, however, specify primary questions to be explored and plans for data collection strategies.

The particular design of a qualitative study depends on the purpose of the inquiry, what information will be most useful, and what information will have the most credibility. There are no strict criteria for sample size (Patton, 1990). "Qualitative studies typically employ multiple forms of evidence....[and] there is no statistical test of significance to determine if results 'count'" (Eisner, 1991, p. 39). Judgments about usefulness and credibility are left to the researcher and the reader.

The Role of the Researcher in Qualitative Inquiry

Before conducting a qualtitative study, a researcher must do three things. First, (s)he must adopt the stance suggested by the characteristics of the naturalist paradigm. Second, the researcher must develop the level of skill appropriate for a human instrument, or the vehicle through which data will be collected and interpreted. Finally, the researcher must prepare a research design that utilizes accepted strategies for naturalistic inquiry (Lincoln and Guba, 1985).

Glaser and Strauss (1967) and Strauss and Corbin (1990) refer to what they call the "theoretical sensitivity" of the researcher. This is a useful concept with which to evaluate a researcher's skill and readiness to attempt a qualitative inquiry.

Theoretical sensitivity refers to a personal quality of the researcher. It indicates an awareness of the subtleties of meaning of data. ...[It] refers to the attribute of having insight, the ability to give meaning to data, the capacity to understand, and capability to separate the pertinent from that which isn't (Strauss and Corbin, 1990, p. 42).

Strauss and Corbin believe that theoretical sensitivity comes from a number of sources, including professional literature, professional experiences, and personal experiences. The credibility of a qualitative research report relies heavily on the confidence readers have in the researcher's ability to be sensitive to the data and to make appropriate decisions in the field (Eisner, 1991; Patton, 1990).

Lincoln and Guba (1985) identify the characteristics that make humans the "instrument of choice" for naturalistic inquiry. Humans are responsive to environmental cues, and able to interact with the situation; they have the ability to collect information at multiple levels simultaneously; they are able to perceive situations holistically; they are able to process data as soon as they become available; they can provide immediate feedback and request verification of data; and they can explore atypical or unexpected responses.

Research Design and Data Collection Strategies

Eisner (1991) claims there is a "paucity of methodological prescriptions" for qualitative research, because such inquiry places a premium on the strengths of the researcher rather than on standardization (p. 169). Lincoln and Guba (1985) provide a fairly detailed outline for the design of naturalistic inquiry, which includes these general steps:

1. Determine a focus for the inquiry. This should establish a boundary for the study, and provide inclusion/exclusion criteria for new information. Boundaries, however, can be altered, and typically are.

2. Determine the fit of the research paradigm to the research focus. The researcher must compare the characteristics of the qualitative paradigm with the goals of the research.

3. Determine where and from whom data will be collected.

4. Determine what the successive phases of the inquiry will be. Phase one, for example, might feature open-ended data collection, while successive phases will be more focused.

5. Determine what additional instrumentation may be used, beyond the researcher as the human instrument.

6. Plan data collection and recording modes. This must include how detailed and specific research questions will be, and how faithfully data will be reproduced.

7. Plan which data analysis procedures will be used.

8. Plan the logistics of data collection, including scheduling and budgeting.

9. Plan the techniques that will be used to determine trustworthiness.

Steps one and two have been addressed in previous sections; the remaining steps will be addressed below.

Sampling Strategies for Qualitative Researchers

In quantitative inquiry, the dominant sampling strategy is probability sampling, which depends on the selection of a random and representative sample from the larger population. The purpose of probability sampling is subsequent generalization of the research findings to the population. By contrast, purposeful sampling is the dominant strategy in qualitative research. Purposeful sampling seeks information-rich cases which can be studied in depth (Patton, 1990).

Patton identifies and describes 16 types of purposeful sampling. These include: extreme or deviant case sampling; typical case sampling; maximum variation sampling; snowball or chain sampling; confirming or disconfirming case sampling; politically important case sampling; convenience sampling; and others (1990, pp. 169-183). According to Lincoln and Guba (1985), the most useful strategy for the naturalistic approach is maximum variation sampling. This strategy

aims at capturing and describing the central themes or principal outcomes that cut across a great deal of participant or program variation. For small samples a great deal of heterogeneity can be a problem because individual cases are so different from each other. The maximum variation sampling strategy turns that apparent weakness into a strength by applying the following logic: Any common patterns that emerge from great variation are of particular interest and value in capturing the core experiences and central, shared aspects or impacts of a program (Patton, 1990, p. 172).

Maximum variation sampling can yield detailed descriptions of each case, in addition to identifying shared patterns that cut across cases. See Hoepfl (1994) for an illustration of this strategy applied to technology education research. Several examples of studies employing case sampling can also be found in the technology education literature (see Brown, 1995; Hansen, 1995; and Lewis, 1995 and 1997)

In spite of the apparent flexibility in purposeful sampling, researchers must be aware of three types of sampling error that can arise in qualitative research. The first relates to distortions caused by insufficient breadth in sampling; the second from distortions introduced by changes over time; and the third from distortions caused by lack of depth in data collection at each site (Patton, 1990).


Data Collection Techniques

The two prevailing forms of data collection associated with qualitative inquiry are interviews and observation.


Interviews

Qualitative interviews may be used either as the primary strategy for data collection, or in conjunction with observation, document analysis, or other techniques (Bogdan and Biklen, 1982). Qualitative interviewing utilizes open-ended questions that allow for individual variations. Patton (1990) writes about three types of qualitative interviewing: 1) informal, conversational interviews; 2) semi-structured interviews; and 3) standardized, open-ended interviews.

An interview guide or "schedule" is a list of questions or general topics that the interviewer wants to explore during each interview. Although it is prepared to insure that basically the same information is obtained from each person, there are no predetermined responses, and in semi-structured interviews the interviewer is free to probe and explore within these predetermined inquiry areas. Interview guides ensure good use of limited interview time; they make interviewing multiple subjects more systematic and comprehensive; and they help to keep interactions focused. In keeping with the flexible nature of qualitative research designs, interview guides can be modified over time to focus attention on areas of particular importance, or to exclude questions the researcher has found to be unproductive for the goals of the research (Lofland and Lofland, 1984).

Recording Data. A basic decision going into the interview process is how to record interview data. Whether one relies on written notes or a tape recorder appears to be largely a matter of personal preference. For instance, Patton says that a tape recorder is "indispensable" (1990, p. 348), while Lincoln and Guba "do not recommend recording except for unusual reasons" (1985, p. 241). Lincoln and Guba base their recommendation on the intrusiveness of recording devices and the possibility of technical failure. Recordings have the advantage of capturing data more faithfully than hurriedly written notes might, and can make it easier for the researcher to focus on the interview.

Observations

The classic form of data collection in naturalistic or field research is observation of participants in the context of a natural scene. Observational data are used for the purpose of description-of settings, activities, people, and the meanings of what is observed from the perspective of the participants. Observation can lead to deeper understandings than interviews alone, because it provides a knowledge of the context in which events occur, and may enable the researcher to see things that participants themselves are not aware of, or that they are unwilling to discuss (Patton, 1990). A skilled observer is one who is trained in the process of monitoring both verbal and nonverbal cues, and in the use of concrete, unambiguous, descriptive language. Sours' (1997) study of teaching and learning styles provides a good example of descriptive language applied to the technology classroom.

There are several observation strategies available. In some cases it may be possible and desirable for the researcher to watch from outside, without being observed. Another option is to maintain a passive presence, being as unobtrusive as possible and not interacting with participants. A third strategy is to engage in limited interaction, intervening only when further clarification of actions is needed. Or the researcher may exercise more active control over the observation, as in the case of a formal interview, to elicit specific types of information. Finally, the researcher may act as a full participant in the situation, with either a hidden or known identity. Each of these strategies has specific advantages, disadvantages and concerns which must be carefully examined by the researcher (Schatzman and Strauss, 1973).

The presence of an observer is likely to introduce a distortion of the natural scene which the researcher must be aware of, and work to minimize. Critical decisions, including the degree to which researcher identity and purposes will be revealed to participants, the length of time spent in the field, and specific observation techniques used, are wholly dependent on the unique set of questions and resources brought to each study. In any case, the researcher must consider the legal and ethical responsibilities associated with naturalistic observation.

Recording Data. Field researchers rely most heavily on the use of field notes, which are running descriptions of settings, people, activities, and sounds. Field notes may include drawings or maps. Acknowledging the difficulty of writing extensive field notes during an observation, Lofland and Lofland (1984) recommend jotting down notes that will serve as a memory aid when full field notes are constructed. This should happen as soon after observation as possible, preferably the same day. In addition to field notes, researchers may use photographs, videotapes, and audio tapes as means of accurately capturing a setting.

Gaining Access and Researcher Obligations

Based on their experience with naturalistic research, Lofland and Lofland (1984) believe that researchers are more likely to gain successful access to situations if they make use of contacts that can help remove barriers to entrance; if they avoid wasting respondents' time by doing advance research for information that is already part of the public record; and if they treat respondents with courtesy. Because naturalistic researchers are asking participants to "grant access to their lives, their minds, [and] their emotions," it is also important to provide respondents with a straightforward description of the goals of the research (p. 25).


Other Sources of Data

Another source of information that can be invaluable to qualitative researchers is analysis of documents. Such documents might include official records, letters, newspaper accounts, diaries, and reports, as well as the published data used in a review of literature. In his study of technology teachers in training, Hansen (1995) analyzed journal entries and memos written by participants, in addition to interviews. Hoepfl (1994), in her study of closure of technology teacher education programs, used newspaper reports, university policy documents, and department self-evaluation data, where available, to supplement data gained through interviews.

There are some specialized forms of qualitative research which rely solely on analysis of documents. For example, Gagel (1997) used a process known as hermeneutic inquiry to investigate the literature on both literacy and technology. Patton (1990) provides a good overview of the various theoretical orientations that inform the "rich menu of alternative possibilities within qualitative research" (p. 65).

Deciding When to Stop Sampling

Qualitative researchers have few strict guidelines for when to stop the data collection process. Criteria include: 1) exhaustion of resources; 2) emergence of regularities; and 3) overextension, or going too far beyond the boundaries of the research (Guba, 1978). The decision to stop sampling must take into account the research goals, the need to achieve depth through triangulation of data sources, and the possibility of greater breadth through examination of a variety of sampling sites.


Analysis of Data

Bogdan and Biklen define qualitative data analysis as "working with data, organizing it, breaking it into manageable units, synthesizing it, searching for patterns, discovering what is important and what is to be learned, and deciding what you will tell others" (1982, p. 145). Qualitative researchers tend to use inductive analysis of data, meaning that the critical themes emerge out of the data (Patton, 1990). Qualitative analysis requires some creativity, for the challenge is to place the raw data into logical, meaningful categories; to examine them in a holistic fashion; and to find a way to communicate this interpretation to others.

Sitting down to organize a pile of raw data can be a daunting task. It can involve literally hundreds of pages of interview transcripts, field notes and documents. The mechanics of handling large quantities of qualitative data can range from physically sorting and storing slips of paper to using one of the several computer software programs that have been designed to aid in this task (see Brown, 1996, for a description of one of these programs).

Analysis begins with identification of the themes emerging from the raw data, a process sometimes referred to as "open coding" (Strauss and Corbin, 1990). During open coding, the researcher must identify and tentatively name the conceptual categories into which the phenomena observed will be grouped. The goal is to create descriptive, multi-dimensional categories which form a preliminary framework for analysis. Words, phrases or events that appear to be similar can be grouped into the same category. These categories may be gradually modified or replaced during the subsequent stages of analysis that follow.

As the raw data are broken down into manageable chunks, the researcher must also devise an "audit trail"-that is, a scheme for identifying these data chunks according to their speaker and the context. The particular identifiers developed may or may not be used in the research report, but speakers are typically referred to in a manner that provides a sense of context (see, for example, Brown, 1996; Duffee and Aikenhead, 1992; and Sours, 1997). Qualititative research reports are characterized by the use of "voice" in the text; that is, participant quotes that illustrate the themes being described.

The next stage of analysis involves re-examination of the categories identified to determine how they are linked, a complex process sometimes called "axial coding" (Strauss and Corbin, 1990). The discrete categories identified in open coding are compared and combined in new ways as the researcher begins to assemble the "big picture." The purpose of coding is to not only describe but, more importantly, to acquire new understanding of a phenomenon of interest. Therefore, causal events contributing to the phenomenon; descriptive details of the phenomenon itself; and the ramifications of the phenomenon under study must all be identified and explored. During axial coding the researcher is responsible for building a conceptual model and for determining whether sufficient data exists to support that interpretation.

Finally, the researcher must translate the conceptual model into the story line that will be read by others. Ideally, the research report will be a rich, tightly woven account that "closely approximates the reality it represents" (Strauss and Corbin, 1990, p. 57). Many of the concerns surrounding the presentation of qualitative research reports are discussed in the section "Judging Qualitative Research" which follows.

Although the stages of analysis are described here in a linear fashion, in practice they may occur simultaneously and repeatedly. During axial coding the researcher may determine that the initial categories identified must be revised, leading to re-examination of the raw data. Additional data collection may occur at any point if the researcher uncovers gaps in the data. In fact, informal analysis begins with data collection, and can and should guide subsequent data collection. For a more detailed yet very understandable description of the analysis process, see Simpson and Tuson (1995).

The Product of Qualitative Data Analysis

In their classic text Discovery of Grounded Theory, Glaser and Strauss (1967,/a>) describe what they believe to be the primary goal of qualitative research: the generation of theory, rather than theory testing or mere description. According to this view, theory is not a "perfected product" but an "ever-developing entity" or process (p. 32). Glaser and Strauss claim that one of the requisite properties of grounded theory is that it be "sufficiently general to be applicable to a multitude of diverse situations within the substantive area" (p. 237).

The grounded theory approach described by Glaser and Strauss represents a somewhat extreme form of naturalistic inquiry. It is not necessary to insist that the product of qualitative inquiry be a theory that will apply to a "multitude of diverse situations." Examples of a more flexible approach to qualitative inquiry can be gained from a number of sources. For example, both Patton (1990) and Guba (1978) state, in the same words, that "naturalistic inquiry is always a matter of degree" of the extent to which the researcher influences responses and imposes categories on the data. The more "pure" the naturalistic inquiry, the less reduction of data into categories.

Figure 1 illustrates one interpretation of the relationship between description, verification, and generation of theory-or, in this case, the development of what Cronbach (1975) calls "working hypotheses, " which suggests a more tractable form of analysis than the word "theory." According to this interpretation, a researcher may move between points on the description/ verification continuum during analysis, but the final product will fall on one particular point, depending on the degree to which it is naturalistic.