Showing posts with label internationalization. Show all posts
Showing posts with label internationalization. Show all posts

Tuesday, August 13, 2019

Hỏi đáp về danh xưng "trường quốc tế" nhân vụ Gateway

Dẫn: Nhân vụ việc xảy ra tại trường Gateway (ai không rõ về việc này, xin gúc), một nhà báo tôi quen có gửi cho tôi một lô những câu hỏi về "cái gọi là trường quốc tế" ở VN. Trên cơ sở những thông tin do tôi cung cấp, nhà báo đã viết lại thành một bài và đã đăng trên báo. Nhưng không phải thông tin nào cũng được sử dụng, nên tôi ... tiếc của, và quyết định đăng nguyên xi những câu hỏi và trả lời của tôi lên blog này cho mọi người cùng đọc.

Phần dưới đây, chữ in nghiêng là trả lời của tôi, còn chữ thường là câu hỏi do nhà báo đưa ra. Nhân tiện, cũng rất cám ơn nhà báo HA đã gửi những câu hỏi rất hay, rất sắc! 

Enjoy!
---------

1-Theo bà thế nào là một trường quốc tế chuẩn?

Trên thế giới hiện nay đang tồn tại một số cách hiểu khác nhau về “trường quốc tế chuẩn”, trong đó có hai cách hiểu phổ biến nhất.

Cách hiểu thứ nhất hẹp hơn, xem “trường quốc tế” là trường được tổ chức Tú tài quốc tế (International Baccalaureate, viết tắt là IB) ủy quyền giảng dạy chương trình của mình; tất nhiên một trường muốn được ủy quyền phải đáp ứng những điều kiện khắt khe và trải qua một quá trình tư vấn, giám sát và đánh giá nghiêm nhặt.

Một số đặc điểm chính của chương trình IB bao gồm (1) được giảng dạy bằng một trong 3 ngôn ngữ phổ biến trên thế giới là tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Tây Ban Nha; (2) có mục tiêu đào tạo người học thành công dân toàn cầu, có tư duy mở và có hiểu biết rộng rãi về thế giới; (3) chương trình học được công nhận toàn cầu và học sinh có thể dễ dàng chuyển từ trường này sang trường khác. 

Cách hiểu thứ hai dựa trên định nghĩa của Hội sự nghiệp thư viện trường học quốc tế (IASL) được đưa ra vào năm 2009, theo đó “trường quốc tế” bao gồm nhiều đặc điểm như liên quan đến môi trường học tập, chương trình giảng dạy, và văn bằng chứng chỉ, có thể tóm tắt như sau:

- Môi trường học tập: Là môi trường đa văn hóa, đa ngôn ngữ, trong đó học sinh và giáo viên thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, nói các ngôn ngữ khác nhau, và thường xuyên di chuyển
- Ngôn ngữ sử dụng trong giảng dạy: Tiếng Anh hoặc song ngữ (gồm tiếng Anh và ngôn ngữ địa phương)
- Chương trình giảng dạy: Sử dụng chương trình quốc tế như IB hoặc các chương trình xuất phát từ một quốc gia nhưng được công nhận rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới (ví dụ: Cambridge, Edexcel…)
- Văn bằng, chứng chỉ: Được kiểm soát thông qua các kỳ thi do chính các tổ chức quốc tế cung cấp (ví dụ: AP, IGCSE, Cambridge, IB DP…), hoặc được thẩm định và công nhận bởi các tổ chức kiểm định hoặc hiệp hội giáo dục quốc tế (ví dụ: CIS, IBO, WASC, vv)

Trong các yếu tố trên, yếu tố đầu tiên có thể có những du di mức độ khác nhau (chẳng hạn, trường quốc tế nhưng hầu như chỉ có học sinh Việt Nam), nhưng một trường quốc tế nhất thiết phải dạy bằng ngôn ngữ quốc tế, nội dung có tính quốc tế, và văn bằng chứng chỉ được quốc tế công nhận.

2-Các trường có yếu tố nước ngoài đặt thêm chữ quốc tế theo bà có được không? (Nếu họ muốn nhấn về yếu tố nước ngoài, chẳng nhẽ lại đặt là trường phổ thông liên cấp có yếu tố nước ngoài ABC).

Luật giáo dục của VN không có định nghĩa chính thức thế nào là trường quốc tế, nhưng cũng không quy định nào cấm sử dụng từ quốc tế trong tên trường.Trên nguyên tắc, doanh nghiệp có quyền làm những gì luật không cấm, nên việc các trường này tự gọi mình là trường quốc tế cũng không có gì là sai. c tế hiện nay tại VN. Tuy nhiên, để bảo vệ “người tiêu dùng giáo dục” (education consumer), cần có quy định về các tiêu chuẩn tối thiểu cho việc sử dụng cụm từ “quốc tế” trong tên gọi của các trường, để tránh những hiểu lầm vô tình hoặc cố ý do cụm từ này gây ra.


3-Trường dạy theo chương trình của Bộ GD-ĐT và một chương trình khác của nước ngoài thì có nên gọi là trường quốc tế?
Việc sử dụng chương trình của Bộ GD-ĐT bên cạnh một chương trình quốc tế không ảnh hưởng gì đến tên gọi trường quốc tế nếu như nhà trường đáp ứng một số tiêu chuẩn cơ bản của trường quốc tế (giảng dạy bằng tiếng Anh hoặc một ngôn ngữ quốc tế khác; sử dụng chương trình được quốc tế công nhận; chứng chỉ, văn bằng được quốc tế thẩm định và công nhận).

4-Trong giới nghiên cứu, vấn đề trường quốc tế nói riêng, xu hướng quốc tế hoá giáo dục đang có những vấn đề gì đáng chú ý đang được thảo luận?
Do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa và mạng internet, nhu cầu “trở thành công dân toàn cầu” ngày càng lớn, kể cả đối với những người học hầu như ít có điều kiện để sinh sống và làm việc ngoài đất nước nơi mình sinh ra,  nên “giáo dục quốc tế” ngày càng trở nên quan trọng và ngày càng được quan tâm. Theo cách hiểu rộng nhất thì “giáo dục quốc tế” không nằm ở các yếu tố bên ngoài như phải sử dụng ngôn ngữ quốc tế, theo chương trình của nước ngoài, văn bằng do nước ngoài công nhận, mà cốt là ở nội dung và mục tiêu giảng dạy, miễn sao có thể góp phần phát triển người học trở thành một “công dân toàn cầu”, tức có hiểu biết về thế giới, tôn trọng các giá trị văn hóa khác nhau ….

5-Các trường phổ thông có chữ quốc tế mở ra ngày càng nhiều, làm thế nào để phụ huynh phân biệt được?
Nên có quy định của nhà nước về danh xưng “trường quốc tế”.

6-Hiện nay có những tổ chức kiểm định chương trình giáo dục phổ thông nào đang  có uy tín?
Bức tranh khá phức tạp, nhưng có thể kể vài tổ chức phổ biến: IBO (tổ chức tú tài quốc tế, có giá trị toàn cầu); hệ thống Anh gồm Cambridge, IGCSE; hệ thống Mỹ có kỳ thi AP và các tổ chức kiểm định vùng như WASC, SACS, NEASC vv…

7-Việt Nam có những trường phổ thông nào đang giảng dạy các chương trình quốc tế đã được những tổ chức đó kiểm định?
Không trả lời ngay được vì cần có thời gian để kiểm tra trên trang web của từng tổ chức. Tốt nhất là ở Bộ/Sở Giáo dục có một cơ sở dữ liệu cung cấp các thông tin này rộng rãi đến công chúng.

8-Hình như vấn đề trường quốc tế -trường quốc tế nửa vời không chỉ là vấn đề của giáo dục Việt Nam. Chẳng hạn như ở Malaysia có hơn 200 trường có tên quốc tế nhưng trong giới giáo dục của nước họ cũng lưu truyền từ cửa miệng là “fake international school” (trường quốc tế nhái). Liệu đây có phải là vấn đề đang xuất hiện ở các nước đang phát triển?
Đúng rồi. Từ đầu thập niên 2000 UNESCO đã có nhiều cảnh báo với các nước đang phát triển về vấn đề này. Họ đã cho xuất bản tài liệu miễn phí và tổ chức nhiều hội thảo phổ biến rộng rãi đến các nước thế giới thứ ba về vấn đề cần “bảo vệ người tiêu dùng trong giáo dục xuyên biên giới” (consumer protection in cross-border education). Rất tiếc là các nước này chưa quan tâm đầy đủ đến các khuyến cáo của UNESCO.
9-Quốc tế hoá giáo dục là xu thế tất yếu và sự tham gia đa dạng của các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài đã thúc đẩy xu thế này. Trong khi đó sự phát triển của cơ quan quản lý nhà nước chưa theo kịp khiến người dân không biết đâu mà lần; bằng chứng là rất nhiều sự vụ liên quan đến trường có yếu tố nước ngoài có sự cố, nhưng họ tìm thông tin để phân biệt thì rất gian nan; ngay các kết quả thanh tra giám sát cũng không được công bố. Theo bà, cần phải làm những gì để xu thế này phát triển lành mạnh?
Cần ra quy định về “danh xưng” trường quốc tế, và  lập một cơ sở dữ liệu các “trường quốc tế” đã đăng ký với đầy đủ thông tin về nội dung chương trình, ngôn ngữ giảng dạy, và thông tin về việc kiểm định hoặc công nhận quốc tế. Đồng thời yêu cầu các trường quốc tế phải minh bạch thông tin các thông tin này trên trang web của mình, và xử phạt nghiêm những trường hợp vi phạm. Chỉ khi nào có sự minh bạch thông tin thì mới có được sự giám sát toàn dân, và lúc ấy mới có được sự phát triển lành mạnh đối với trường quốc tế tại VN.
-----------
Kết

Khi đọc bài tổng hợp của các nhà báo đăng trên Vietnamnet ngày hôm qua (link: https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/goc-phu-huynh/danh-xung-truong-quoc-te-co-dang-lap-lo-558081.html?fbclid=IwAR0PUkCZw_psLSGKEcriupl9zb3BNMuFidvbGoP8J8fq6wBlcTdCdApt20E), tôi thích nhận đoạn kết luận, nên đưa lên đây cho mọi người đọc luôn:

Khi đưa câu hỏi "Trong giới nghiên cứu, vấn đề trường quốc tế nói riêng, xu hướng quốc tế hoá giáo dục đang có những vấn đề gì đáng chú ý đang được thảo luận?”, chúng tôi khá ngạc nhiên khi nhận được câu trả lời không phải đề cập tới chương trình nọ hay bằng cấp kia, mà là thế này: “Do ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa và mạng internet, nhu cầu “trở thành công dân toàn cầu” ngày càng lớn, kể cả đối với những người học hầu như ít có điều kiện để sinh sống và làm việc ngoài đất nước nơi mình sinh ra,  nên “giáo dục quốc tế” ngày càng trở nên quan trọng và ngày càng được quan tâm. Theo cách hiểu rộng nhất thì “giáo dục quốc tế” không nằm ở các yếu tố bên ngoài như phải sử dụng ngôn ngữ quốc tế, theo chương trình của nước ngoài, văn bằng do nước ngoài công nhận, mà cốt là ở nội dung và mục tiêu giảng dạy, miễn sao có thể góp phần phát triển người học trở thành một “công dân toàn cầu”, tức có hiểu biết về thế giới, tôn trọng các giá trị văn hóa khác nhau ….”
Chúng tôi lại nhớ đến vụ khủng hoảng mà trường Gateway đang gặp phải. Dù đang nỗ lực hội nhập quốc tế với sự hiện diện thầy Tây, chương trình quốc tế, nhưng trong cách giải quyết của chủ trường, của bộ phận quản lý và các cơ quan quản lý, những giá trị xuyên biên giới của "công dân toàn cầu" - cũng là giá trị bất biến của mọi nền giáo dục như lòng trắc ẩn, sự tử tế và sự trung thực, tính minh bạch…lại chưa có cơ hội được thể hiện, để "hội nhập quốc tế".

Sunday, July 24, 2011

"Năm huyền thoại về quốc tế hóa"

Bản dịch bài viết của Jane Knight dưới đây là do Kim Khôi dịch cho Bản tin Giáo dục của ĐH Hoa Sen, và đã được đăng trên trang web của trường này kèm với lời giới thiệu. Xin được đăng lên blog này để chia sẻ với mọi người. Bản gốc tiếng Anh có thể tìm được theo đường link được cung cấp.
---------------

Nguồn: http://www.che.de/downloads/ICE_Winter_2011_newsletter_end_of_internationalisation.pdf

Jane Knight
Vũ Kim Khôi dịch

Cùng với sự trưởng thành của quốc tế hóa, quá trình này ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp. Đồng thời, nó cũng trở thành một khái niệm rắc rối và dễ nhầm lẫn. Quốc tế hóa giờ đây không còn là một cái gì được thực hiện chỉ để « làm màu » trong ngắn hạn, mà đã được kết hợp vào tuyên bố sứ mạng của các trường, vào chính sách, chiến lược cũng như vào khung pháp lý quốc gia. Điều này cho thấy quốc tế hóa đã chín muồi, và đã trở thành một khung pháp lý cho chính sách, thực tiễn và nghiên cứu trong giáo dục đại học. Tuy nhiên, do quốc tế hóa được xem là một khái niệm quá quan trọng rộng và “nổi tiếng”, nên nó đã được dùng để mô tả bất cứ điều gì có liên quan đến toàn thế giới, mang tính chất liên văn hóa, toàn cầu hóa hoặc có bản chất quốc tế. Tóm lại, nó đã trở thành một cụm từ thuận tiện để chỉ nhiều vấn đề và vì thế mất đi ý nghĩa và định hướng ban đầu. Bài viết này ngụ ý rằng trong nhiều năm qua đã có rất nhiều giả định – hoặc đúng hơn là các huyền thoại – về quốc tế hóa, và chúng cần được phơi bày và suy xét cặn kẽ. Dưới đây là 5 điều huyền thoại phổ biến nhất về quốc tế hóa:

Huyền thoại 1: Sinh viên quốc tế là tác nhân của quá trình quốc tế hóa

Một huyền thoại đã tồn tại lâu đời là việc cho rằng sự hiện diện của sinh viên quốc tế trong trường sẽ tạo ra một văn hóa trường học mang tính quốc tế và giúp quốc tế hóa chương trình đào tạo của trường. Mặc dù điều đó có thể là mong đợi của nhiều trường đại học, nhưng bức tranh thực tiễn lại hoàn toàn khác biệt. Tại nhiều trường đại học, các sinh viên quốc tế thường cảm thấy bị tách biệt về mặt xã hội cũng như về mặt học thuật, và thường phải chịu áp lực do sự khác biệt chủng tộc. Thường thì các sinh viên trong nước rất hay chống đối, hoặc, ít ra là thường tỏ ra dửng dưng trong việc tham gia vào những đề án hợp tác đào tạo hoặc tiếp xúc với các sinh viên quốc tế - trừ những chương trình đào tạo do chính trường của họ hay do các giáo viên hướng dẫn xây dựng. Các sinh viên quốc tế thường có khuynh hướng tụ họp lại với nhau và mỉa mai thay là chính họ lại có được nhiều kinh nghiệm liên văn hóa có ý nghĩa hơn các sinh viên nội địa mà không cần phải tiếp xúc quá sâu với nền lịch sử và văn hóa của nước bản địa. Tình trạng này tất nhiên không đúng với tất cả các trường, tuy nhiên nó cho thấy một vấn đề đối với giả thuyết ít bị nghi ngờ là việc tuyển sinh viên quốc tế sẽ giúp quốc tế hóa văn hóa trường học. Mặc dù đây là mục đích hoàn toàn chính đáng để thực hiện quốc tế hóa, nhưng thường thì mọi việc không diễn ra đúng như vậy, mà thay vào đó, nó chỉ che đậy những động cơ khác như tạo thêm nguồn thu cho trường, hoặc nỗ lực cải thiện thứ hạng của trường trên các bảng xếp hạng quốc tế.

Huyền thoại 2: Danh tiếng quốc tế là một thước đo chất lượng

Huyền thoại này dựa trên quan điểm là một trường đại học càng quốc tế hóa thì nó càng nổi tiếng ; quốc tế hóa ở đây được tính trên sự hiện diện của các sinh viên, giảng viên quốc tế, các chương trình đào tạo và công trình nghiên cứu, các thỏa thuận hợp tác và sự tham gia vào các hiệp hội và tổ chức quốc tế. Điều này liên quan mật thiết đến quan điểm sai lầm là trường càng có danh tiếng quốc tế thì càng có chất lượng. Đã có nhiều ví dụ về những trường đại học có chuẩn tuyển sinh và tốt nghiệp đáng ngờ; những trường này hoàn toàn phụ thuộc vào doanh thu và “giá trị thương hiệu” của các sinh viên quốc tế. Những trường hợp như vậy là bằng chứng đanh thép khẳng định rằng quốc tế hóa không phải lúc nào cũng tương đồng với chất lượng cao hay có chất lượng. Ngoài ra, huyền thoại này còn bị làm phức tạp thêm bởi cuộc đua tranh giữa các trường nhằm đạt thứ hạng cao trong các hệ thống xếp hạng như THE hay ARWU. Liệu các bảng xếp hạng có đo được chính xác tính quốc tế hóa của các trường hay không là một điều cần xem xét lại, và quan trọng hơn là liệu yếu tố quốc tế hóa có luôn là một chỉ số đáng tin cậy về chất lượng hay không.

Huyền thoại 3: Các thỏa thuận hợp tác, liên kết quốc tế

Mọi người thường tin rằng một trường đại học càng có nhiều thỏa thuận hợp tác, hoặc là thành viên của càng nhiều tổ chức quốc tế thì trường đó càng nổi tiếng và càng hấp dẫn đối với các sinh viên hoặc với các trường khác. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng, hầu hết các trường thường không thể quản lý, thậm chí chẳng thu được lợi lộc gì từ hàng trăm thỏa thuận hợp tác như vậy. Việc duy trì các mối quan hệ chủ động và thành công đòi hỏi ở các trường nhiều đầu tư về nhân lực cũng như tài lực từ bản thân các giảng viên, các khoa, và phòng hợp tác quốc tế của các trường. Vì vậy, nếu một trường có một danh sách dài lê thê các đối tác quốc tế thì danh sách đó chỉ có giá trị trên giấy mà thôi, chứ không hẳn đó là những mối quan hệ có hiệu quả. Một lần nữa, số lượng thường được xem là quan trọng hơn chất lượng, và danh sách các mối quan hệ quốc tế thường được dùng như một biểu tượng cho vị thế của trường, hơn là hồ sơ các mối quan hệ học thuật thiết thực. Tuy vậy, xu hướng gần đây của các trường là cắt giảm các mối quan hệ xuống còn từ 10 đến 20 trường đối tác ưu tiên. Điều này có thể thúc đẩy các mối quan hệ toàn diện và bền vững, mặc dù cũng sẽ phần nào khiến các giảng viên và nhà nghiên cứu không hài lòng về cách tiếp cận quốc tế hóa theo kiểu chỉ đạo từ trên xuống, cũng như sự thu hẹp những quan tâm cá nhân về nghiên cứu và chương trình đào tạo quốc tế.

Huyền thoại 4: Kiểm định quốc tế

Việc được kiểm định từ các cơ quan đánh giá chất lượng của nước ngoài (thường là của Hoa Kỳ) hoặc được kiểm định bởi các tổ chức kiểm định chuyên ngành thuộc khối ngành kỹ thuật và doanh thương hiện đang là xu thế phổ biến đối với các trường đại học tại khắp nơi trên thế giới. Giả thuyết ở đây là, một trường càng được nhiều tổ chức kiểm định quốc tế công nhận thì trường đó càng có tính quốc tế hóa, và hiển nhiên là trường đó sẽ phải tốt hơn các trường khác. Điều này hoàn toàn không đúng. Việc được một tổ chức kiểm định quốc tế công nhận về chất lượng không thể khẳng định được phạm vi, quy mô hoặc giá trị của những hoạt động quốc tế trong giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng thông qua quan hệ với xã hội hoặc với doanh nghiệp.

Huyền thoại 5: Xây dựng thương hiệu quốc tế

Huyền thoại thứ 5 liên quan đến giả định sai lầm rằng mục đích của việc quốc tế hóa tại một trường đại học là để cải thiện thương hiệu hay vị thế quốc tế của trường đó. Điều này gây nhầm lẫn giữa kế hoạch tiếp thị quốc tế với kế hoạch quốc tế hóa một trường đại học. Tiếp thị quốc tế là quảng cáo và xây dựng thương hiệu cho trường; trong khi quốc tế hóa lại là một chiến lược để tích hợp các yếu tố như tính quốc tế, liên văn hóa và toàn cầu vào mục tiêu sứ mạng của trường, vào những chức năng cơ bản của một trường đại học là giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Những mục tiêu, kết quả dự kiến và đầu tư vào một sáng kiến xây dựng thương hiệu toàn cầu hoàn toàn khác với những gì cần thiết để thực hiện quốc tế hóa học thuật của một trường. Vì vậy, huyền thoại này chính là việc coi kế hoạch tiếp thị quốc tế tương đương với kế hoạch quốc tế hóa. Tuy nhiên, chúng ta không phủ nhận thực tế rằng một chương trình quốc tế hóa mang tính chiến lược và thành công có thể làm cho một trường được biết đến hơn trên thế giới, tuy nhiên đó không phải là mục tiêu mà chỉ là một sản phẩm phụ mà thôi.

Năm huyền thoại vừa nêu có một điểm chung, đó là người ta tin rằng những lợi ích từ việc quốc tế hóa hoặc từ một phần của quốc tế hóa có thể đo được bằng con số cụ thể – như là số lượng sinh viên, giảng viên quốc tế, số lượng các mối quan hệ quốc tế, chương trình liên kết đào tạo, các đề án nghiên cứu, kiểm định quốc tế, các chi nhánh trường tại nước ngoài, v.v… Việc lượng hóa những kết quả đạt được thành những chỉ số hoạt động cốt lõi có thể đáp ứng được những yêu cầu về sự minh bạch, tuy nhiên những chỉ số đó không thể nào đo lường được những tác động vô hình từ sinh viên, giảng viên, nhà nghiên cứu và cộng đồng lên những lợi ích thu được từ quốc tế hóa.

Kết luận

Năm huyền thoại trên không hoàn toàn đúng với mọi trường đại học hay mọi quốc gia, tuy nhiên, chúng phản ánh rất rõ những giả định sai lầm và rất phổ biến. Tất nhiên là trên thực tế còn tồn tại nhiều huyền thoại cũng như những sự thật căn bản về quốc tế hóa mà ta cần phải tranh luận và suy xét. Mục đích của việc xác định và suy xét những huyền thoại và sự thật đó là để định hướng đúng việc quốc tế hóa và để đảm bảo rằng chúng ta nhận thức được những hậu quả mong đợi cũng như không mong đợi khi nền giáo dục đại học toàn cầu đang vượt qua thời kỳ tương đối hỗn loạn khi mà sự cạnh tranh, việc xếp hạng và thương mại hóa tồn tại như là những động lực thúc đẩy chính.

Saturday, June 25, 2011

Bảng hỏi khảo sát mức độ quốc tế hóa của các trường đại học

Bảng hỏi này do IAU thiết kế để khảo sát mức độ quốc tế hóa của các trường đại học trên thế giới. Có thể tải xuống ở đây.

Dưới đây là phần mô tả vắn tắt của tôi, kèm phần dịch.
-------
Bảng hỏi được mô tả ở đây là phiên bản sử dụng năm 2005. Nói thêm, cuộc khảo sát này bắt đầu vào năm 2003, và đã thực hiện được 3 lần vào những năm 2003, 2005, và 2009.

Bảng hỏi gồm 6 phần lớn xoay quanh những vấn đề khảo sát, đó là:
1. Tầm quan trọng, lý do, lợi ích và rủi ro (Importance, rationales, benefits and risks): câu 1 đến 4
2. Chính sách, chiến lược và hoạt động (policy/strategy and activities): câu 5 đến 7
3. Ngoại ngữ (foreign language): câu 7 đến 9
4. Những hỗ trợ và trở ngại (facilitators and obstacles): hai câu 10 và 11
5. Các cơ chế kiểm soát đang hình thành (evolving regulatory mechanisms), gồm 3 câu từ 12 đến 14 (đảm bảo chất lượng, công nhận bằng cấp và chuyển đổi tín chỉ, và GATS - hiệp định chung về thương mại và dịch vụ)
6. Những vấn đề và thách thức (issues and challenges), gồm 3 câu hỏi mở (15 đến 17)

Phần dịch dưới đây (sẽ dịch từ từ):

Câu 1
Trong môi trường hoạt động với nhiều ưu tiên khác nhau, quốc tế hóa có vai trò như thế nào đối với (a) đơn vị của bạn; (b) hiệp hội quốc gia các trường đại học; (c) các chính sách và chương trình hquốc gia?
Chọn một trong các mức độ sau:
- Không ưu tiên
- Ưu tiên thấp
- Ưu tiên trung bình
- Ưu tiên cao

Câu 2
Những lý do nào khiến quốc tế hóa quan trọng đối với (a) đơn vị và (b) quốc gia của bạn? Hãy chọn 3 lý do quan trọng nhất cho từng loại.
Các lý do được nêu gồm có:
- Mở rộng và đa dạng hóa nguồn giảng viên và sinh viên
- Tạo dựng một hình ảnh (profile) và uy tín quốc tế
- Củng cố năng lực nghiên cứu và sản sinh tri thức
- Thúc đẩy phát triển chương trình và các sáng chế (innovation)
- Tăng cường kiến thức quốc tế và sự hiểu biết xuyên văn hóa của giảng viên và sinh viên
- Góp phần làm tăng chất lượng giảng dạy (hàn lâm)
- Đa dạng hóa nguồn kinh phí
- Khác

(Tạm thời thế đã, hôm khác dịch tiếp).

"Chín sai lầm liên quan đến quốc tế hóa trong giáo dục đại học"

Đó là bản dịch cái tựa của bài viết đã đăng trên bản tin giáo dục quốc tế số 64, có thể tìm đọc bản gốc tiếng Anh tại đây. Tựa tiếng Anh là "Internationalization of higher education: Nine misconceptions", tác giả là Hans de Wit (tên này nghe rất Hà Lan, chẳng biết có đúng không).

"Quảng cáo" thêm chút: bài này đã được Khôi, con trai tôi, dịch để gửi cho bản tin giáo dục của Đại học Hoa Sen, sẽ đăng trong thời gian sắp tới. Các bạn có thể chờ đọc bài dịch ấy trên trang của Hoa Sen. Còn bây giờ, trong khi chờ đợi xin gửi lên đây phần giới thiệu bài viết, và liệt kê tên của 9 sai lầm ấy.

-----------

Chín sai lầm liên quan đến quốc tế hóa trong giáo dục đại học
Hans de Wit
Kim Khôi dịch


Hans de Wit là giáo sư chuyên nghiên cứu vấn đề quốc tế hóa tại Trường Kinh tế và Quản trị Hogeschool van Amsterdam, trường Đại học Khoa học Ứng dụng, Hà Lan. Bài viết sau đây được tóm gon từ bài giảng trước công chúng của ông tại Amsterdam vào ngày 06 tháng 04 năm 20011.
E-mail: j.w.m.de.wit@hva.nl.

Quốc tế hóa trong giáo dục đại học tại Châu Âu đã hình thành và phát triển suốt 20 năm qua, đầu tiên chỉ là một mối quan tâm thứ yếu nhưng dần dà đã trở thành một nhân tố trung tâm. Quá trình toàn cầu hóa trong các lãnh vực xã hội và kinh tế đã làm tăng thêm ảnh hưởng của cạnh tranh và các hoạt động của thị trường lên cách thức thực hiện quốc tế hóa. Nói đến quốc tế hóa, trước hết cần phân biệt giữa quốc tế hóa như một mục tiêu hay như một phương pháp tiếp cận. Việc đưa quốc tế hóa trở thành nhân tố trung tâm giả định một cách tiếp cận toàn diện và hệ thống nhằm cải thiện chất lượng giáo dục đại học và nâng cao năng lực của đội ngũ giảng viên và sinh viên. [...] Bài viết này sẽ đề cập đến chín sai lầm liên quan đến quốc tế hóa [...]. Trong cả chín sai lầm lầm này, khái niệm quốc tế hóa đều được đánh đồng với chiến lược thúc đẩy quốc tế hóa của một chương trình hoặc một cơ sở dào tạo – nói cách khác, phương tiện để thực hiện quốc tế hóa đã trở thành mục tiêu của quốc tế hóa.

1. Đào tạo bằng tiếng Anh

2. Đi du học hay sinh sống ở nước ngoài

3. Có những môn học có tính quốc tế

4. Có nhiều sinh viên quốc tế

5. Có ít sinh viên quốc tế để đảm bảo thành công

6. Không cần năng lực liên văn hóa và kinh nghiệm quốc tế

7. Càng nhiều quan hệ, mức độ quốc tế hóa càng cao

8. Giáo dục đại học vốn sẵn có tính quốc tế

9. Xem quốc tế hóa là một mục tiêu cụ thể


----------------
Tạm thời thế. Các bạn muốn đọc trọn bài dịch ư? Xin vui lòng chờ bài được đăng trên bản tin giáo dục của ĐH Hoa Sen cái đã nhé!