Một vị chủ nhiệm khoa của một trường đại học
lớn ở Hà Nội, đồng thời là chủ tịch một hội đồng khoa học và đào tạo cấp khoa,
có chức danh khoa học, luôn lớn tiếng mắng đồng nghiệp khi họ nêu giả thuyết cho
nghiên cứu của mình. Vị chủ nhiệm khoa này nói: “NCKH của các anh cần gì phải có
giả thuyết” (!). Tại một viện nghiên cứu khác ở Hà Nội, ban lãnh đạo của viện đã
phân vân, có nên yêu cầu các nghiên cứu sinh và học viên cao học viết giả thuyết
trong luận văn của mình nữa không, vì các vị cho rằng, viết thì thừa, không viết
thì thiếu!
ở
một khoa khác trong một trường đại học lớn, một vị phó giáo sư bắt mọi luận văn,
luận án (thạc sỹ và tiến sỹ) phải viết giả thuyết dưới dạng “Nếu …, thì …” một
cách rất khô cứng, chẳng hạn, bản luận văn thạc sỹ do chính ông hướng dẫn, đã
viết “giả thuyết” thành “giả thiết”, và được viết như sau: “Nếu có được biện
pháp quản lý chất lượng đào tạo thích hợp, thì sẽ nâng cao được chất lượng đào
tạo nguồn nhân lực”.
Hầu hết văn bản hướng dẫn viết luận văn sau
đại học của nhiều trường đại học ở nước ta hiện nay không đòi hỏi và hướng dẫn
các tác giả phải trình bày “giả thuyết”. Khảo sát tại một cơ sở đào tạo sau đại
học của ngành y, chúng tôi được các thầy /cô khẳng định: Nghiên cứu của ngành y
không cần giả thuyết. Đến khi chúng tôi đưa cho các vị xem cuốn sách của GS, BS
Tôn Thất Tùng, trong đó, ông luôn nói: “Tôi đặt giả thuyết này…”, “Tôi đặt giả
thuyết kia…” thì các vị mới “ngã ngửa” ra rằng, trong nghiên cứu của ngành y,
đến bác sỹ Tôn Thất Tùng, cũng đã phải viết giả
thuyết.
Chúng ta có thể vào thư viện của nhiều
trường đại học, tìm đọc một số công trình nghiên cứu các loại, từ luận án tiến
sỹ, luận văn thạc sỹ đến cử nhân, đều có thể thấy, hàng loạt tác giả hoặc là
không trình bày giả thuyết của nghiên cứu, hoặc là sử dụng khái niệm giả thuyết
và giả thiết một cách khá tùy tiện. Điều này chứng tỏ sự yếu kém về phương pháp
luận trong cộng đồng nghiên cứu của chúng ta. Sự yếu kém này có lý do của nó:
Hàng loạt trường đại học Việt Nam chưa đưa môn học về phương pháp
luận NCKH vào chương trình giảng dạy.
Nếu nói đến tình trạng báo động trong NCKH
và đào tạo sau đại học, thì đây là một trong những điều đáng báo động
nhất.
Khái niệm “giả thuyết” và “giả thiết” trong
nghiên cứu
Khái niệm “giả thuyết nghiên
cứu”
Vậy “giả thuyết”, hoặc “giả thuyết khoa
học”, hoặc đơn giản hơn, “giả thuyết nghiên cứu” (Hypothese) là gì? Sách hướng
dẫn NCKH nước ngoài phần lớn định nghĩa giả thuyết là một sự giải thích
(explanation) sơ bộ về bản chất sự vật. Trong các bài giảng về phương pháp luận
NCKH, chúng tôi đưa ra những định nghĩa để người học dễ thao tác hơn: “Giả
thuyết là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu”, hoặc “Giả
thuyết là luận điểm cần chứng minh của tác giả”, hoặc, đối với những người mới
làm quen với NCKH, chúng tôi đưa ra một định nghĩa rất đơn giản: “Giả thuyết là
câu trả lời sơ bộ, cần chứng minh, vào câu hỏi nghiên cứu của đề
tài”.
Mendeleev nói: “Không một nghiên cứu nào
không phải đặt giả thuyết”. ông còn nhấn mạnh: “Đặt ra một giả thuyết sai vẫn
còn hơn không đặt ra một giả thuyết nào”. Có người nói rằng, điều mà Mendeleev
nói chỉ đúng trong khoa học tự nhiên, còn trong khoa học xã hội thì không cần
giả thuyết. Thế nhưng, một nhà khoa học xã hội rất quen biết, là Engels, đã
khẳng định trong Biện chứng tự nhiên: “Nghiên cứu nào cũng phải có giả thuyết.
Giả thuyết chẳng qua là sự giải thích sơ bộ bản chất của sự
vật”.
Khái niệm “giả thiết” trong nghiên
cứu
Bên cạnh khái niệm “giả thuyết”, trong NCKH
còn sử dụng khái niệm “giả thiết” (Assumption). Giả thiết là một điều kiện giả
định trong quan sát hoặc thực nghiệm.
Ví
dụ, khi nói nước sôi ở 1000 C, người ta đã ngầm hiểu, nước đó được quy về những
điều kiện giả định, đó là: (1) Nước nguyên chất, (2) Được đun nóng dưới áp suất
là 1 atm.
Một ví dụ khác trong khoa học xã hội, khi
xem xét quan hệ giữa khu vực sản xuất tư liệu sản xuất (khu vực I) và khu vực
sản xuất tư liệu tiêu dùng (khu vực II) trong quá trình tái sản xuất mở rộng,
Marx đã đặt giả thuyết là khu vực I quyết định khu vực II với giả thiết rằng,
giữa các quốc gia không có ngoại
thương.
Giả thiết là một điều kiện mang tính quy ước
của người nghiên cứu, nó có thể không tồn tại hoặc không phải lúc nào cũng tồn
tại trong thực tế.
Vai trò của “giả thuyết” trong
NCKH
Tất cả các khoa học thực nghiệm, bất kể
trong khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật hay khoa học xã hội, đều cần có giả
thuyết. Kết luận này là kết quả của cuộc tranh luận diễn ra vào nửa cuối thế kỷ
XIX, trong đó có mặt cả các nhà khoa học tự nhiên và các nhà khoa học xã hội.
Trong cuộc tranh luận này, chúng ta thấy có cả E.
Mach1, nhà vật lý nổi tiếng người áo và
Engels.
Mach đã phê phán kịch liệt việc sử dụng giả
thuyết trong NCKH. Trong khi đó, Engels lại đứng về phía những người ủng hộ việc
phải xây dựng giả thuyết trong NCKH. Trong cuộc tranh luận ấy, Engels đã đưa
định nghĩa giả thuyết như vừa nêu ở
trên2.
Vì
sao cần có giả thuyết trong NCKH? Chính bởi vì, NCKH là đi tìm kiếm những điều
chưa biết. Cái khó là làm cách nào để tìm kiếm những điều chưa biết? Bằng trải
nghiệm khoa học, các nhà nghiên cứu đã tìm ra giải pháp đưa ra một phương án
“giả định” về cái điều chưa biết. Phương án giả định đó được gọi là giả thuyết.
Nhờ có phương án giả định đã đặt ra, mà người nghiên cứu có được hướng tìm kiếm.
Rất có thể giả thuyết bị đánh đổ, khi đó người nghiên cứu phải đặt một giả
thuyết khác thay thế. Công việc diễn ra liên tục như thế, cho đến khi đạt được
kết quả cuối cùng.
Tuy là một kết luận mang tính giả định được
đặt ra để chứng minh, nhưng giả thuyết không thể được đặt ra một cách tùy tiện,
mà phải dựa trên cơ sở quan sát sơ bộ quy luật diễn biến của đối tượng mà chúng
ta nghiên cứu. Có những sự kiện diễn ra một cách phổ biến, giúp chúng ta đưa ra
một giả thuyết phổ biến. Ví dụ, quan sát tất cả các chuyển động thẳng đều, người
ta đều thấy nghiệm đúng quy luật tuyến tính s = v.t. Tuy nhiên, có những quy
luật mà chúng ta chỉ quan sát thấy nghiệm đúng trong một tập hợp mang tính thống
kê nào đó. Khi đó, chúng ta thiết lập được các giả thuyết thống kê. Chẳng hạn,
trong một cuộc điều tra dư luận xã hội về nguyên nhân ly hôn trong giới trẻ ở
thành phố, có tới 70% số người được hỏi cho rằng đó là do những khác biệt về lối
sống. Từ kết quả này, chúng ta đặt giả thuyết, sự khác biệt về lối sống là
nguyên nhân ly hôn trong giới trẻ ở thành phố. Giả thuyết này được xem là một
dạng của loại giả thuyết thống kê.
Mỗi giả thuyết luôn đi kèm với một điều kiện
giả định, nghĩa là một giả thiết quan sát hoặc thực nghiệm. Chẳng hạn, giả
thuyết trong một nghiên cứu lâm sinh: “Cây keo tai tượng sinh trưởng nhanh hơn
cây keo lá tràm” với giả thiết rằng: “Hai loài keo này được trồng trong cùng
điều kiện lập địa, cùng điều kiện khí hậu và cùng điều kiện chăm sóc”. Như vậy,
giả thiết được đặt ra nhằm tập trung mối quan tâm của nghiên cứu vào những liên
hệ căn bản nhất, loại trừ bớt những liên hệ không căn
bản.
Trong giới nghiên cứu ở nước ta hiện nay,
một số người vẫn cho rằng, giả thuyết chỉ cần thiết với những nghiên cứu giải
thích và nghiên cứu giải pháp, còn nghiên cứu mô tả thì cứ việc “thấy sao nói
vậy”, không cần phải đặt giả thuyết. Có lẽ các bạn đồng nghiệp của chúng ta
tưởng thế thôi, trên thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Có thể lấy ví dụ, mô
tả một hiện trạng kinh tế, hoàn toàn có hai quan điểm trái ngược nhau: Một quan
điểm cho rằng nền kinh tế đang phát triển tốt đẹp; một quan điểm cho rằng, nó
đang có những biểu hiện khủng hoảng. Ví dụ khác, một triều đại lịch sử, chẳng
hạn, nhà Mạc, có thể mô tả như một ngụy triều; song trên một góc
nhìn khác, nó lại có thể được mô tả như một chính
triều.
Bản chất logic của “giả
thuyết”
Cuối cùng, làm thế nào viết được một giả
thuyết? Đối với các đồng nghiệp nghiên cứu mới vào nghề, đây luôn là một công
việc khó khăn.
Bí
quyết kỹ năng viết giả thuyết là ở bản chất logic của giả thuyết. Về mặt logic,
giả thuyết được trình bày dưới dạng một phán đoán. Các phán đoán logic có dạng
chung là (S - P), nghĩa là “S là /không là P”. Giả thuyết được chứng minh sẽ trở
thành những “tế bào” bổ sung vào hệ thống lý thuyết vốn tồn tại, hoặc trở nên
những mầm mống đầu tiên cho sự hình thành những cơ sở lý thuyết khoa học mới.
Nói như thế có nghĩa, các lý thuyết khoa học, xét về mặt logic học, cũng đều là
những phán đoán.
Tuy nhiên, mỗi giả thuyết luôn đi kèm những
điều kiện giả định, tức giả thiết. Vì vậy, mỗi lý thuyết đều phải chấp nhận một
ước lệ về hoàn cảnh thực tế đã sản sinh ra nó. Chính vì vậy, bao giờ giữa lý
thuyết với thực tế cũng có một khoảng
cách.
Không phải ngẫu nhiên, mà nhiều nhà nghiên
cứu hay trích Goethe: “Mọi lý thuyết đều màu xám. Chỉ cây đời là mãi mãi xanh
tươi” .
1
Ernst Mach (1838-1916) là nhà vật lý người áo. ông đã đặt cơ sở cho những nghiên
cứu về vai trò của âm thanh trong khí động học. Những nghiên cứu phê phán của
ông về các nguyên lý cơ học Newton đã có ảnh hưởng lớn đến các công trình
của Einstein sau này (theo Le Petit Larousse illustré, Paris, 2002).
2 Xem Ruzavin
G.I., Các phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, tr. 92 (Bản
dịch tiếng Việt của Nguyễn Như Thịnh).