Sunday, September 30, 2012

Công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư tại VIệt Nam: Tự chủ và trách nhiệm giải trình


Bài viết này của tôi đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần số ngày 30/9/2012, có được biên tập chút ít cho gọn lại. Tôi đăng lên đây bản gốc chưa biên tập để lưu cho mình và chia sẻ với bạn bè.

Các bạn có thể xem bản đã biên tập và đăng trên TTCT tại đây: http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/tuoitre.vn/Tu-chu-va-trach-nhiem-giai-trinh/9441896.epi
--------------------------
Quy định mới về việc bổ nhiệm chức danh giáo sư tại các trường đại học đang là tâm điểm của sự quan tâmcủa dư luận, đặc biệt là giới đại học. Có khá nhiều lời khen, nhưng tiếng chê cũng không phải là ít. Một câu hỏi được nhiều người đặt ra là liệu quy định mới có đem lại những thay đổi tích cực cho bộ mặt giáo dục đại học của Việt Nam?

Để bàn về những cái lợi và bất lợi của việc trao quyền bổ nhiệm cho hiệu trưởng thì trước hết cần biết rõ hơn về các quy định và quy trình công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS hiện nay.

Những quy định liên quan đến việc công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS tại Việt Nam

Có 4 văn bản có liên quan mà chúng ta cần biết.

1.    1. QĐ 174/2008/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS, PGS ký ngày 31/12/2008.

Theo Quyết định này, việc bổ nhiệm chức danh GS, PGS bao gồm 2 bước: (1) công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh do Hội đồng chức danh nhà nước quyết nghị dựa trên hồ sơ do Hội đồng chức cơ sở thẩm định hồ sơ và gửi lên; (2) bổ nhiệm chức danh giáo sư do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định dựa trên đề nghị của thủ trưởng cơ quan (tức hiệu trưởng các trường).
2.    
    2. TT 16/2009/TT-BGDĐT quy định chi tiết về việc công nhận, hủy bỏ công nhận đạt tiêu chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh ký ngày 17/7/2009.

Thông tư này chủ yếu quy định về các loại điểm công trình làm cơ sở cho việc xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh, quy định về hồ sơ của ứng viên, các thủ tục công nhận, hủy bỏ công nhận, bổ nhiệm và miễn nhiệm chức danh dựa trên QĐ 174/2008/QĐ-TTg nói trên.

3.    3.  QĐ 20/2012/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của “Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS, PGS” ban hành theo QĐ 174/2008/QĐ-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ.

Văn bản này có một số điều chỉnh để quy định được rõ ràng hơn hoặc phù hợp với tình hình thực tế hơn, ví dụ như bổ sung thêm quy định về các nhà giáo thuộc biên chế các cơ sở giáo dục ngoài công lập (Điều 6), hoặc bổ sung quy định về các ngành nghệ thuật chưa đào tạo tiến sĩ trong nước (Điều 10).

Thay đổi có ý nghĩa nhất trong Quyết định mới này có liên quan đến các điều 17, 19 và 21 trong QĐ 174/2008/QĐ-TTg về việc bổ nhiệm, giao nhiệm vụ, và miễn nhiệm chức danh. Trước đó, tất cả quy trình và thủ tục công nhận/hủy bỏ công nhận lẫn bổ nhiệm/miễn nhiệm đều được thực hiện ở cấp trung ương. Tuy nhiên, với quy định mới, nhà nước chỉ giữ lại quyền công nhận/hủy bỏ công nhận, còn quyền bổ nhiệm/miễn nhiệm được giao cho thủ trưởng cơ quan (tức hiệu trưởng các trường).

4.       4. TT 20/2012/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung TT 16/2009/TT-BGDĐT ký ngày 11/9/2012 mới đây.

Không kể những thay đổi nhỏ về các quy trình, thủ tục, quy định chi tiết cho việc công nhận/hủy bỏ công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh, Thông tư mới này chỉ nhằm làm cập nhật lại những thay đổi về quyền của hiệu trưởng về việc bổ nhiệm/miễn nhiệm chức danh GS, PGS đã nêu trong QĐ 20/2012/QĐ-TTg mà thôi.

Công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS: Các trường cần được tự chủ tới đâu?

Một ưu điểm không thể phủ nhận của quy định mới này là Bộ đã tự nguyện giảm bớt quyền hạn của mình và trao thêm quyền cho các hiệu trưởng. Đây là xu thế chung của thế giới, đồng thời là quan điểm đã được khẳng định trong Luật Giáo dục đại học mà Quốc hội vừa thông qua và sẽ được áp dụng từ đầu năm 2013. Quyết định trao quyền bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư cho hiệu trưởng các trường dường như là một tín hiệu rõ ràng của quá trình đổi mới đại học Việt Nam theo hướng chuyển bớt quyền hành xuống cơ sở, thể hiện quan điểm tôn trọng quyền tự chủ của các trường đại học, trong đó có quyền có những quyết định về nhân sự, tức tuyển dụng và bổ nhiệm những người sẽ tham gia đóng góp công sức trong lực lượng khoa học của một trường.

Nhưng khi ta đọc kỹ các quy định có liên quan thì sẽ thấy hiệu trưởng không thực sự có nhiều quyền lắm, vì việc bổ nhiệm chức danh gồm 2 quy trình là công nhận và bổ nhiệm (tức sử dụng tại một cơ sở giáo dục). Cả hai quyền này trước đây nhà nước nắm giữ, nay nhà nước vẫn giữ lại quyền công nhận, các trường chỉ được trao quyền bổ nhiệm mà thôi. Nói cách khác, có vẻ như ta có thể hoàn toàn yên tâm là sẽ không có khả năng lạm phát hoặc tiêu cực vì nhà nước vẫn có sự kiểm soát. Phải nói là sự kiểm soát hiện nay thật ra rất chặt, rất chi li qua những quy định tỉ mỉ, về số bài báo, số công trình nghiên cứu, số năm thâm niên vv, và về từng điểm số được quy đổi và cộng trừ nhân chia chính xác cho các sản phẩm trí tuệ của ứng viên để quyết định một ứng viên có xứng đáng được công nhận chức danh GS, PGS hay không.

Nếu đem so sánh với quy trình đang áp dụng tại các nước tuy vẫn rất nghiêm nhặt nhưng khá gọn nhẹ vì chỉ trong phạm vi từng trường thì những người được công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư của chúng ta hẳn phải xứng đáng hơn nhiều lắm. Vì đã có những trường hợp các giảng viên của Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc thì được đánh giá là đủ trình độ để bổ nhiệm vào vị trí giáo sư hoặc phó giáo sư, nhưng khi về Việt Nam lại không thể vượt qua những quy định chi li, tỉ mỉ về điểm số do nhà nước quy định chung cho GS, PGS của tất cả các ngành. Nhưng lại cũng có một thực tế là rất nhiều giáo sư, phó giáo sư của chúng ta có năng lực ngoại ngữ khá hạn chế, thiếu cập nhật về kiến thức (một phần cũng vì đa số các vị này quá bận với các chức vụ quản lý), và chất lượng của các công trình khoa học của họ hoàn toàn chưa thể so sánh với những đồng nghiệp của mình, chỉ tính ở ngay các nước lân cận thôi chứ không nói đâu xa.

Như vậy, phải chăng nhà nước nên tiếp tục đẩy mạnh việc trao quyền cho các trường bằng cách trao toàn cả công nhận lẫn bổ nhiệm chức danh GS, PGS? Đối với các nước có một nền giáo dục phát triển với truyền thống tự chủ đại học cao, điều này không bao giờ là một câu hỏi mà là lẽ đương nhiên. Giáo sư và phó giáo sư là những vị trí (có người gọi là chức vụ) cao cấp về khoa học của những giảng viên, nhà khoa học làm việc trong các trường đại học. Rõ ràng là không có lý do gì một vị hiệu trưởng, người đã được tín nhiệm và trao quyền điều hành toàn bộ hoạt động của một cơ sở giáo dục đại học, nơi có đủ khả năng và quyền để đào tạo cả ở trình độ tiến sĩ, lại không đủ khả năng ra quyết định về những nhân sự chủ chốt trong lực lượng khoa học tại nơi mình quản lý.

Khi trao toàn quyền công nhận và bổ nhiệm các chức danh khoa học cho các trường, chắc chắn số lượng giáo sư, phó giáo sư tại Việt Nam sẽ tăng lên và theo sát nhu cầu của các trường, xóa đi tình trạng tỷ lệ giáo sư chỉ chiếm có 1% tổng số các giảng viên đại học như hiện nay. Một tỷ lệ thật khó chấp nhận, khi so sánh với tỷ lệ tương ứng tại các nước khác, kể cả các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia chẳng hạn. Tóm lại, cần trao toàn quyền công nhận và bổ nhiệm GS, PGS cho hiệu trưởng vì đó chính là một cú hích cho sự phát triển của đại học Việt Nam, ít ra là trên lý thuyết.

Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình: Hai mặt của một đồng xu

Chắc chắn sẽ có những lập luận chống lại đề nghị nêu trên. Chỉ mới trao quyền bổ nhiệm cho hiệu trưởng thôi thì ngay lập tức dư luận đã có những băn khoăn về khả năng lạm phát chức danh, hoặc khả năng có các tiêu cực như chỉ bổ nhiệm giáo sư cho những người “ăn ý” với mình. Những băn khoăn này hoàn toàn hiểu được, khi Việt Nam vẫn đang ở trong tình trạng có nhiều trường chất lượng chưa cao, năng lực nghiên cứu khoa học của các giảng viên vẫn còn hạn chế, thậm chí cả chất lượng bằng cấp của một số trường, một số ngành học cũng đang là những dấu chấm hỏi.

Theo định nghĩa, các chức danh giáo sư, phó giáo sư là những vị trí cao cấp về khoa học, chúng khẳng định về năng lực, tầm cỡ và uy tín chuyên môn của các giảng viên hoạt động trong các trường đại học. Khi hiệu trưởng không có quyền công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, một giảng viên, một nhà khoa học dù không “ăn ý” với hiệu trưởng nhưng đã phấn đấu đạt được các chức danh do Bộ Giáo dục bổ nhiệm vẫn có được những quyền hạn về khoa học như việc tham gia các hội đồng. Vì thế, những người này vẫn có thể giữ được sự độc lập tương đối và được hưởng sự tôn trọng xứng đáng. Nay nếu quyền công nhận và bổ nhiệm chức danh được trao cho hiệu trưởng mà không có một cơ chế kiểm soát tương ứng kèm theo, thì không ai có thể bảo đảm việc những nhà khoa học thực sự xứng đáng nhưng quá độc lập và “có cá tính” không bị loại trừ để dành cho những người kém năng lực nhưng dễ bảo hơn.

Lật lại vấn đề như vậy không phải là để cổ vũ cho việc nhà nước nên nắm giữ lại các quyền hành ở trung ương, mà chỉ để nhắc tới mặt trái của đồng xu “tự chủ đại học”, đó là “trách nhiệm giải trình”. Ở các nước phát triển, các trường đại học có quyền tự chủ rất cao nhưng khó xảy ra tình trạng tiêu cực, lạm quyền, hay lạm phát bằng cấp, chức danh, là do có cơ chế về trách nhiệm giải trình của những người có quyền lực - ở đây là các hiệu trưởng. Những quyết định về chuyên môn của hiệu trưởng đều được giám sát bởi cộng đồng khoa học, và mọi sai sót nếu có đều được chỉ ra nhanh chóng bởi quyền được thông tin của mọi người và cơ chế tự do ngôn luận. Sức ép của dư luận xã hội; sự tẩy chay của “người tiêu dùng” - ở đây là người học, gia đình và các nhà tuyển dụng; danh dự và uy tín của các cá nhân và đơn vị trong cộng đồng khoa học, tất cả đều là các yếu tố để tạo thành một cơ chế giải trình hữu hiệu và không thể thiếu để quyền tự chủ của các trường có thể thực sự phát huy những tác dụng tích cực.

Trao quyền tự chủ cho các trường đại học là một điều cần thiết và là xu thế không thể đảo ngược ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, tự chủ tự nó không thể đem lại điều gì tốt đẹp nếu không kèm theo đó trách nhiệm giải trình của các trường đại học đối với các cơ quan quản lý và toàn xã hội.  Một xã hội dân sự phát triển cùng cơ chế thị trường cạnh tranh cũng là những cơ chế giám sát rất hiệu quả để ngăn chặn sự lạm quyền. Trao thêm quyền hạn cho người đứng đầu của các trường khi chưa xem xét đầy đủ các cơ chế giám sát phù hợp có thể sẽ chỉ làm cho bộ mặt giáo dục đại học của Việt Nam thêm phần rối rắm và hỗn loạn mà thôi.


(bài viết cho Tuổi Trẻ cuối tuần, viết xong ngày 25/9/2012)

No comments:

Post a Comment