Bài viết này của tôi đã đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần số ngày 30/9/2012, có được biên tập chút ít cho gọn lại. Tôi đăng lên đây bản gốc chưa biên tập để lưu cho mình và chia sẻ với bạn bè.
Các bạn có thể xem bản đã biên tập và đăng trên TTCT tại đây: http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/tuoitre.vn/Tu-chu-va-trach-nhiem-giai-trinh/9441896.epi
Các bạn có thể xem bản đã biên tập và đăng trên TTCT tại đây: http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/tuoitre.vn/Tu-chu-va-trach-nhiem-giai-trinh/9441896.epi
--------------------------
Quy định mới về việc bổ nhiệm chức danh giáo sư tại các trường
đại học đang là tâm điểm của sự quan tâmcủa dư luận, đặc biệt là giới đại học.
Có khá nhiều lời khen, nhưng tiếng chê cũng không phải là ít. Một câu hỏi được
nhiều người đặt ra là liệu quy định mới có đem lại những thay đổi tích cực cho
bộ mặt giáo dục đại học của Việt Nam?
Để bàn về những cái lợi và bất lợi của việc trao quyền bổ
nhiệm cho hiệu trưởng thì trước hết cần biết rõ hơn về các quy định và quy
trình công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS hiện nay.
Những quy định liên quan đến việc công nhận và bổ nhiệm chức danh GS,
PGS tại Việt Nam
Có 4 văn bản có liên quan mà chúng ta cần biết.
1. 1. QĐ
174/2008/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS,
PGS ký ngày 31/12/2008.
Theo Quyết định này, việc bổ nhiệm chức danh GS, PGS bao gồm
2 bước: (1) công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh do Hội đồng chức danh nhà nước
quyết nghị dựa trên hồ sơ do Hội đồng chức cơ sở thẩm định hồ sơ và gửi lên;
(2) bổ nhiệm chức danh giáo sư do Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định dựa trên đề
nghị của thủ trưởng cơ quan (tức hiệu trưởng các trường).
2.
2. TT
16/2009/TT-BGDĐT quy định chi tiết về việc công nhận, hủy bỏ công nhận đạt tiêu
chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh ký ngày 17/7/2009.
Thông tư này chủ yếu quy định về các loại điểm công trình
làm cơ sở cho việc xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh, quy định về hồ sơ của
ứng viên, các thủ tục công nhận, hủy bỏ công nhận, bổ nhiệm và miễn nhiệm chức
danh dựa trên QĐ 174/2008/QĐ-TTg nói trên.
3. 3. QĐ
20/2012/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của “Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ
nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS, PGS” ban hành theo QĐ 174/2008/QĐ-TTg ngày 31/12/2008
của Thủ tướng Chính phủ.
Văn bản này có một số điều chỉnh để quy định được rõ ràng
hơn hoặc phù hợp với tình hình thực tế hơn, ví dụ như bổ sung thêm quy định về
các nhà giáo thuộc biên chế các cơ sở giáo dục ngoài công lập (Điều 6), hoặc bổ
sung quy định về các ngành nghệ thuật chưa đào tạo tiến sĩ trong nước (Điều
10).
Thay đổi có ý nghĩa nhất trong Quyết định mới này có liên
quan đến các điều 17, 19 và 21 trong QĐ 174/2008/QĐ-TTg về việc bổ nhiệm, giao
nhiệm vụ, và miễn nhiệm chức danh. Trước đó, tất cả quy trình và thủ tục công
nhận/hủy bỏ công nhận lẫn bổ nhiệm/miễn nhiệm đều được thực hiện ở cấp trung
ương. Tuy nhiên, với quy định mới, nhà nước chỉ giữ lại quyền công nhận/hủy bỏ
công nhận, còn quyền bổ nhiệm/miễn nhiệm được giao cho thủ trưởng cơ quan (tức
hiệu trưởng các trường).
4. 4. TT
20/2012/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung TT 16/2009/TT-BGDĐT ký ngày 11/9/2012 mới
đây.
Không kể những thay đổi nhỏ về các quy trình, thủ tục, quy định
chi tiết cho việc công nhận/hủy bỏ công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh, Thông tư
mới này chỉ nhằm làm cập nhật lại những thay đổi về quyền của hiệu trưởng về việc
bổ nhiệm/miễn nhiệm chức danh GS, PGS đã nêu trong QĐ 20/2012/QĐ-TTg mà thôi.
Công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS: Các trường cần được tự chủ tới
đâu?
Một ưu điểm không thể phủ nhận của quy định mới này là Bộ đã
tự nguyện giảm bớt quyền hạn của mình và trao thêm quyền cho các hiệu trưởng.
Đây là xu thế chung của thế giới, đồng thời là quan điểm đã được khẳng định
trong Luật Giáo dục đại học mà Quốc hội vừa thông qua và sẽ được áp dụng từ đầu
năm 2013. Quyết định trao quyền bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư cho hiệu trưởng
các trường dường như là một tín hiệu rõ ràng của quá trình đổi mới đại học Việt
Nam theo hướng chuyển bớt quyền hành xuống cơ sở, thể hiện quan điểm tôn trọng
quyền tự chủ của các trường đại học, trong đó có quyền có những quyết định về
nhân sự, tức tuyển dụng và bổ nhiệm những người sẽ tham gia đóng góp công sức
trong lực lượng khoa học của một trường.
Nhưng khi ta đọc kỹ các quy định có liên quan thì sẽ thấy hiệu
trưởng không thực sự có nhiều quyền lắm, vì việc bổ nhiệm chức danh gồm 2 quy
trình là công nhận và bổ nhiệm (tức sử dụng tại một cơ sở giáo dục). Cả hai quyền
này trước đây nhà nước nắm giữ, nay nhà nước vẫn giữ lại quyền công nhận, các trường
chỉ được trao quyền bổ nhiệm mà thôi. Nói cách khác, có vẻ như ta có thể hoàn
toàn yên tâm là sẽ không có khả năng lạm phát hoặc tiêu cực vì nhà nước vẫn có
sự kiểm soát. Phải nói là sự kiểm soát hiện nay thật ra rất chặt, rất chi li
qua những quy định tỉ mỉ, về số bài báo, số công trình nghiên cứu, số năm thâm
niên vv, và về từng điểm số được quy đổi và cộng trừ nhân chia chính xác cho
các sản phẩm trí tuệ của ứng viên để quyết định một ứng viên có xứng đáng được
công nhận chức danh GS, PGS hay không.
Nếu đem so sánh với quy trình đang áp dụng tại các nước tuy
vẫn rất nghiêm nhặt nhưng khá gọn nhẹ vì chỉ trong phạm vi từng trường thì những
người được công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư của chúng ta hẳn
phải xứng đáng hơn nhiều lắm. Vì đã có những trường hợp các giảng viên của Việt
Nam khi làm việc ở nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc thì được đánh giá là đủ
trình độ để bổ nhiệm vào vị trí giáo sư hoặc phó giáo sư, nhưng khi về Việt Nam
lại không thể vượt qua những quy định chi li, tỉ mỉ về điểm số do nhà nước quy
định chung cho GS, PGS của tất cả các ngành. Nhưng lại cũng có một thực tế là rất
nhiều giáo sư, phó giáo sư của chúng ta có năng lực ngoại ngữ khá hạn chế, thiếu
cập nhật về kiến thức (một phần cũng vì đa số các vị này quá bận với các chức vụ
quản lý), và chất lượng của các công trình khoa học của họ hoàn toàn chưa thể
so sánh với những đồng nghiệp của mình, chỉ tính ở ngay các nước lân cận thôi
chứ không nói đâu xa.
Như vậy, phải chăng nhà nước nên tiếp tục đẩy mạnh việc trao
quyền cho các trường bằng cách trao toàn cả công nhận lẫn bổ nhiệm chức danh
GS, PGS? Đối với các nước có một nền giáo dục phát triển với truyền thống tự chủ
đại học cao, điều này không bao giờ là một câu hỏi mà là lẽ đương nhiên. Giáo
sư và phó giáo sư là những vị trí (có người gọi là chức vụ) cao cấp về khoa học
của những giảng viên, nhà khoa học làm việc trong các trường đại học. Rõ ràng
là không có lý do gì một vị hiệu trưởng, người đã được tín nhiệm và trao quyền
điều hành toàn bộ hoạt động của một cơ sở giáo dục đại học, nơi có đủ khả năng
và quyền để đào tạo cả ở trình độ tiến sĩ, lại không đủ khả năng ra quyết định
về những nhân sự chủ chốt trong lực lượng khoa học tại nơi mình quản lý.
Khi trao toàn quyền công nhận và bổ nhiệm các chức danh khoa
học cho các trường, chắc chắn số lượng giáo sư, phó giáo sư tại Việt Nam sẽ
tăng lên và theo sát nhu cầu của các trường, xóa đi tình trạng tỷ lệ giáo sư chỉ
chiếm có 1% tổng số các giảng viên đại học như hiện nay. Một tỷ lệ thật khó chấp
nhận, khi so sánh với tỷ lệ tương ứng tại các nước khác, kể cả các nước trong
khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia chẳng hạn. Tóm lại, cần trao toàn
quyền công nhận và bổ nhiệm GS, PGS cho hiệu trưởng vì đó chính là một cú hích
cho sự phát triển của đại học Việt Nam, ít ra là trên lý thuyết.
Quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình: Hai mặt của một đồng xu
Chắc chắn sẽ có những lập luận chống lại đề nghị nêu trên.
Chỉ mới trao quyền bổ nhiệm cho hiệu trưởng thôi thì ngay lập tức dư luận đã có
những băn khoăn về khả năng lạm phát chức danh, hoặc khả năng có các tiêu cực
như chỉ bổ nhiệm giáo sư cho những người “ăn ý” với mình. Những băn khoăn này
hoàn toàn hiểu được, khi Việt Nam vẫn đang ở trong tình trạng có nhiều trường
chất lượng chưa cao, năng lực nghiên cứu khoa học của các giảng viên vẫn còn hạn
chế, thậm chí cả chất lượng bằng cấp của một số trường, một số ngành học cũng
đang là những dấu chấm hỏi.
Theo định nghĩa, các chức danh giáo sư, phó giáo sư là những
vị trí cao cấp về khoa học, chúng khẳng định về năng lực, tầm cỡ và uy tín chuyên
môn của các giảng viên hoạt động trong các trường đại học. Khi hiệu trưởng không
có quyền công nhận và bổ nhiệm chức danh giáo sư, một giảng viên, một nhà khoa
học dù không “ăn ý” với hiệu trưởng nhưng đã phấn đấu đạt được các chức danh do
Bộ Giáo dục bổ nhiệm vẫn có được những quyền hạn về khoa học như việc tham gia
các hội đồng. Vì thế, những người này vẫn có thể giữ được sự độc lập tương đối
và được hưởng sự tôn trọng xứng đáng. Nay nếu quyền công nhận và bổ nhiệm chức
danh được trao cho hiệu trưởng mà không có một cơ chế kiểm soát tương ứng kèm
theo, thì không ai có thể bảo đảm việc những nhà khoa học thực sự xứng đáng
nhưng quá độc lập và “có cá tính” không bị loại trừ để dành cho những người kém
năng lực nhưng dễ bảo hơn.
Lật lại vấn đề như vậy không phải là để cổ vũ cho việc nhà
nước nên nắm giữ lại các quyền hành ở trung ương, mà chỉ để nhắc tới mặt trái của
đồng xu “tự chủ đại học”, đó là “trách nhiệm giải trình”. Ở các nước phát triển,
các trường đại học có quyền tự chủ rất cao nhưng khó xảy ra tình trạng tiêu cực,
lạm quyền, hay lạm phát bằng cấp, chức danh, là do có cơ chế về trách nhiệm giải
trình của những người có quyền lực - ở đây là các hiệu trưởng. Những quyết định
về chuyên môn của hiệu trưởng đều được giám sát bởi cộng đồng khoa học, và mọi
sai sót nếu có đều được chỉ ra nhanh chóng bởi quyền được thông tin của mọi người
và cơ chế tự do ngôn luận. Sức ép của dư luận xã hội; sự tẩy chay của “người
tiêu dùng” - ở đây là người học, gia đình và các nhà tuyển dụng; danh dự và uy
tín của các cá nhân và đơn vị trong cộng đồng khoa học, tất cả đều là các yếu tố
để tạo thành một cơ chế giải trình hữu hiệu và không thể thiếu để quyền tự chủ
của các trường có thể thực sự phát huy những tác dụng tích cực.
Trao quyền tự chủ cho các trường đại học là một điều cần thiết
và là xu thế không thể đảo ngược ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam. Tuy nhiên, tự chủ tự nó không thể đem lại điều gì tốt đẹp nếu không
kèm theo đó trách nhiệm giải trình của các trường đại học đối với các cơ quan quản
lý và toàn xã hội. Một xã hội dân sự
phát triển cùng cơ chế thị trường cạnh tranh cũng là những cơ chế giám sát rất
hiệu quả để ngăn chặn sự lạm quyền. Trao thêm quyền hạn cho người đứng đầu của
các trường khi chưa xem xét đầy đủ các cơ chế giám sát phù hợp có thể sẽ chỉ
làm cho bộ mặt giáo dục đại học của Việt Nam thêm phần rối rắm và hỗn loạn mà
thôi.
(bài viết cho Tuổi Trẻ cuối tuần, viết xong ngày 25/9/2012)