Wednesday, November 16, 2011

“CHUẨN ĐẦU RA” VÀ MỘT SỐ NGỘ NHẬN PHỔ BIẾN TẠI VIỆT NAM (1)

Báo cáo này của tôi vừa được trình bày tại Hội thảo về "Chuẩn đầu ra giáo dục đại học và đánh giá theo CĐR" sáng nay tại Huế. Đây là bản chính thức và hoàn chỉnh (cho tới nay) của những phần đã được đăng trên trang blog này trong thời gian gần đây (4 kỳ liên tiếp). Bài này đã cắt gọn lại những gì đã viết, và thêm phần mở đầu, kết luận cho đúng yêu cầu về hình thức của một báo cáo chính thức.

Các bạn đọc và trao đổi, chia sẻ nhé. Địa chỉ mail của tôi: vtpanh@gmail.com

----
Mở đầu

Khái niệm “chuẩn đầu ra” (CĐR) xuất hiện trong các văn bản hành chính của ngành giáo dục lần đầu tiên trong Chỉ thị số 7823/CT-BGD của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hai năm đã trôi qua kể từ ngày Chỉ thị 7823 ra đời vào tháng 10/2009, nhưng các trường vẫn còn rất lúng túng trong việc công bố CĐR theo yêu cầu của Bộ, như có thể thấy qua phản ánh của báo chí. Do hiểu chưa đúng khái niệm “CĐR” nên mặc dù một số trường đại học của Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện yêu cầu của Bộ qua việc đưa công khai những yêu cầu đầu ra của chương trình trên trang web của nhà trường, nhưng cho đến nay việc công bố này dường như vẫn không đem lại tác động tích cực nào trong việc nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo đại học của Việt Nam. Bài viết này nhằm chỉ ra một số những ngộ nhận có liên quan đến việc hiểu khái niệm CĐR ở Việt Nam.

1. Sự lúng túng và thiếu thống nhất trong cách hiểu khái niệm “Chuẩn đầu ra”

Chỉ thị 7823 của Bộ nêu rõ là ngay trong năm 2010 các trường phải thực hiện việc công bố CĐR nhằm tạo điều kiện thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng và đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội. Để thực hiện yêu cầu của chỉ thị nói trên, vào tháng 4/2010, Bộ Giáo dục cũng đã ban hành văn bản hướng dẫn xây dựng CĐR để hỗ trợ các trường trong việc thực hiện xây dựng và công bố CĐR theo yêu cầu của Bộ.

Tuy nhiên, theo phản ánh của một bài viết trên báo Lao Động ngày 26/10/2011 cho biết, cho đến nay vẫn vẫn chỉ có rất ít trường công bố CĐR của mình trên trang web. Và ngay cả những trường đã công bố CĐR vẫn cảm thấy còn rất lúng túng trong việc hiểu và thực hiện công bố CĐR yêu cầu của Bộ. Sự lúng túng này thể hiện rất rõ qua việc mặc dù đã có hướng dẫn thống nhất từ Bộ, nhưng hiện nay vẫn có tình trạng mỗi trường làm mỗi kiểu, hầu như không trường nào giống trường nào.

Để minh họa cho sự thiếu thống nhất trong cách hiểu và cách thực hiện, xin nêu ở đây một vài ví dụ về các CĐR đã được công bố trên website của các trường, và xin chọn một ngành khá phổ biến ở Việt Nam là ngành công nghệ thông tin, vốn được rất nhiều nơi đào tạo. Do bài viết chỉ nhằm minh họa sự thiếu thống nhất trong cách hiểu CĐR chứ không có ý định kết luận là trường nào đúng trường nào sai, nêu danh tính của các trường sẽ được để dưới hình thức khuyết danh, tạm gọi là trường X và trường Y.

1.1. Phát biểu CĐR của trường X

Tại Trường X, toàn bộ lời phát biểu CĐR có chiều dài tổng cộng là 3 trang, gồm 6 yêu cầu về các lĩnh vực Kiến thức, Kỹ năng chuyên môn, Kỹ năng mềm, Năng lực, Hành vi, và Ngoại ngữ. Dưới đây xin chỉ trích dẫn phần 1 về kiến thức và phần 2 về kỹ năng của một chuyên ngành Công nghệ phần mềm:

Về Kiến thức
Kiến thức giáo dục đại cương: trang bị cho sinh viên các kiến thức giáo dục đại cương về Lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Khoa học tự nhiên; chú trọng vào Toán học là nền tảng tiền đề cho ngành đào tạo.

Kiến thức cơ sở ngành: trang bị cho sinh viên những kiến thức về Toán chuyên ngành công nghệ thông tin, Lập trình máy tính, Hệ thống máy tính, Các ứng dụng quan trọng của công nghệ thông tin.

Kiến thức chuyên ngành: Trong năm học cuối, sinh viên sẽ lựa chọn chuyên sâu hướng học tập và nghiên cứu về Hệ thống thông tin; Khoa học máy tính; Công nghệ phần mềm; Kỹ thuật máy tính; Mạng máy tính và truyền thông. Phần kiến thức chuyên ngành sẽ trang bị cho sinh viên: kiến thức liên quan đến nghiên cứu phát triển, gia công hay ứng dụng hệ thống phần mềm; kiến thức về thiết kế, xây dựng, cài đặt, vận hành và bảo trì các thành phần phần cứng, phần mềm của hệ thống máy tính và các hệ thống thiết bị dựa trên máy tính; kiến thức về mạng máy tính và truyền thông.
Về Kỹ năng
Chuyên ngành Công nghệ phần mềm
Kỹ sư Công nghệ thông tin chuyên ngành Công nghệ phần mềm có những kỹ năng:
• Thu thập, phân tích tìm hiểu và tổng hợp các yêu cầu từ đối tượng sử dụng sản phẩm phần mềm để phục vụ công tác thiết kế.
• Thiết kế, triển khai thực hiện và quản lý các dự án phần mềm có qui mô vừa và nhỏ, đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật đặt ra trong điều kiện thực tế.
• Các kỹ năng về đánh giá chi phí, đảm bảo chất lượng của phần mềm.
• Các kỹ năng về kiểm thử, bảo trì và xây dựng tài liệu kỹ thuật, tài liệu hướng dẫn sử dụng hệ thống hiệu quả và dễ dùng.
• Áp dụng tri thức Khoa học máy tính, quản lý dự án để nhận biết, phân tích và giải quyết sáng tạo và hiệu quả những vấn đề kỹ thuật trong lĩnh vực xây dựng và phát triển phần mềm máy tính.


1.2. Phát biểu CĐR của trường Y

Mặc dù không được nêu trong văn bản hướng dẫn của Bộ, nhưng bản phát biểu CĐR của trường Y còn có thêm phần phát mục tiêu giáo dục trước khi nêu các phát biểu CĐR. Cách phân loại các CĐR của trường Y hoàn toàn khác với trường X: trong khi trường X có đến 6 loại CĐR khác nhau thì phát biểu CĐR của trường Y chỉ bao gồm 3 lãnh vực : Thái độ và đạo đức nghề nghiệp, Năng lực chuyên môn, và Khả năng hội nhập và học tập suốt đời. Phần CĐR thì ngắn gọn hơn nhiều, với chiều dài không đến một trang. Ngoài ra , trong phần « Kỹ năng » thì Trường X chia nhỏ ra thành nhiều chuyên ngành cụ thể (không nêu kỹ năng chung của toàn ngành), còn Trường Y thì nêu chung ngắn gọn như sau :

Tốt nghiệp chương trình Đại học Công nghệ Thông tin sinh viên đạt được các chuẩn đầu ra sau:
Năng lực chuyên môn
• Áp dụng các nguyên lý thiết kế phát triển trong quá trình xây dựng các hệ thống phần mềm với độ phức tạp khác nhau. Sử dụng trừu tượng hoá, che giấu thông tin trong thiết kế phần mềm, sử dụng các kỹ thuật thiết kế hướng đối tượng hiện đại như kế thừa, đa hình và sử dụng các biểu đồ UML.
• Sử dụng thành thạo tối thiểu 2 ngôn ngữ lập trình (C++, Java/C#), có khả năng vận dụng nguyên lý và cơ chế hoạt động của các ngôn ngữ lập trình khác nhau để giải quyết bài toán thực tế.
• Nhận biết, phân tích cơ chế hoạt động của các ứng dụng trên desktop và trên web nhằm lựa chọn các phương pháp, công nghệ thích hợp trong quá trình xây dựng giải pháp cho bài toán thực tế.
• Có khả năng lý luận về tổ chức hoạt động của các module và quá trình hoạt động phần mềm: bao gồm stack, heap, dữ liệu ra vào trên hệ thống mạng, thiết bị lưu trữ trong quá trình xây dựng, chỉnh lỗi, và hiệu chỉnh hiệu suất hệ thống phần mềm.
• Có khả năng vận dụng toán rời rạc với các phần mềm trong các lĩnh vực như CSDL, kỹ thuật phần mềm, an ninh hệ thống; sử dụng các kỹ thuật rà soát từ toán rời rạc để đánh giá được tính chính xác của phần mềm.
• Sử dụng tư duy giải thuật để phân tích và giải quyết toàn diện các vấn đề mới trong quá trình xây dựng phần mềm.
• Có khả năng vận dụng hướng tiếp cận hệ thống trong thiết kế và nâng cao hiệu suất hoạt động.
• Trong quá trình xây dựng phần mềm, có khả năng đánh giá được tính hiệu quả của dự án; Xây dựng các mô hình thích hợp cho một bài toán dựa vào các giả định gần đúng, ước lượng với các công cụ như COCOMO, Wideband Delphi, v.v..


1.3. Nhận xét

Ví dụ nêu trên đủ cho ta thấy thiếu thống nhất và lúng túng của các trường trong cách hiểu khái niệm “chuẩn đầu ra”. Không kể đến những khác biệt, các phát biểu CĐR của cả hai trường X và trường Y đều không giúp ta biết những « CĐR » này sẽ được đo lường như thế nào. Trong khi đó, khả năng đo lường được của các phát biểu CĐR là tiêu chí đầu tiên nếu không muốn nói là duy nhất để xác định một phát biểu CĐR được thực hiện đúng phương pháp.

Các khác biệt trong cách hiểu khái niệm CĐR của hai trường được thể hiện qua hai điểm : (1) Trường Y có cố gắng phân biệt « mục tiêu giáo dục » (những mục tiêu đặt ra cho nhà trường) và CĐR (những kết quả mà người học đạt được khi tốt nghiệp), còn trong bản mô tả của Trường X, hai khái niệm này dường như không được mà đã nhập lại với nhau ; (2) Trường X đưa ra 6 loại CĐR, trong đó có đến 3 loại liên quan đến ngành nghề chuyên môn là Kiến thức, Kỹ năng, và Hành vi. Trong khi đó, trong bản phát biểu CĐR của trường Y thì cả 3 loại này đã được gộp vào chung trong một loại CĐR của Trường Y và được gọi là Năng lực chuyên môn.

Thực ra, sự khác biệt trong cách hiểu CĐR của các trường như đã nêu ở trên cũng dễ hiểu, vì đây là một khái niệm tương đối mẻ trong ngôn ngữ giáo dục của Việt Nam, chỉ mới được sử dụng và được quan tâm trong vài năm gần đây, chủ yếu là do yêu cầu của Bộ Giáo dục.

Vì thời gian để các trường hiểu và triển khai thực hiện công bố CĐR là khá gấp gáp, nên việc mỗi người hiểu và thực hiện một cách là một hệ quả không có gì là bất ngờ. Thậm chí, chính những khác biệt giữa các trường sẽ giúp tạo ra những trao đổi, thậm chí tranh cãi, để dẫn đến việc hiểu rõ hơn cũng như khả năng thống nhất cách hiểu khái niệm này.

(còn tiếp)

No comments:

Post a Comment