Monday, August 5, 2013

"Thất thoát hay trao đổi chất xám?" (Altbach, 2013; Anh Khôi dịch)

Bài viết rất hay dưới đây là của GS Altbach, vị giáo sư hàng đầu thế giới chuyên nghiên cứu về giáo dục đại học trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Một bài mà theo tôi rất có ý nghĩa đối với các nước đang phát trỉển vốn đang phải đối mặt với nguy cơ thất thoát chất xám trầm trọng, trong đó có VN. 

Những bài như thế này thì tiếng Việt có rất ít người viết; mỗi lần tôi đọc được thì cảm thấy rất thích và thường khuyến khích cậu con trai dịch ra, vì tôi thường bận (và cũng ... ngán, vì đọc xong thì hiểu rồi, không muốn/không cảm thấy cần dịch ra tiếng Việt nữa). Còn cậu con trai tôi thì cũng đồng ý là cần phải dịch ra để phổ biến rộng rãi nhưng vì thận trọng không dám dịch một mình vì sợ chưa có đủ kinh nghiệm và kiến thức để xử lý những mắc mứu trong bài, vì thường những bài viết như vậy đòi hỏi một hiểu biết khá rộng về bối cảnh thế giới và VN. 

Vì vậy, mẹ con tôi đã quyết định "hợp tác" theo phương thức ... có lợi cho tất cả các bên như sau: nếu mẹ thấy bài gì hay thì gửi cho con dịch (nói chung cậu ta xử lý ngôn ngữ khá tốt cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt), đồng thời đánh dấu những chỗ chưa hoàn toàn chắc chắn. Sau đó thì mẹ đọc lại lần cuối và giải thích/xử lý những chỗ còn chưa ổn (nếu có) để trở thành sản phẩm hoàn chỉnh. Trước đây mỗi lần như vậy tôi hay ghi: Kim Khôi dịch, Phương Anh hiệu đính, nhưng giờ đây tôi bèn chọn giải pháp ký tên Anh Khôi (Phương Anh + Kim Khôi) cho những sản phẩm hợp tác như vậy. Fair, isn't it? Khi nào Kim Khôi hoặc Phương Anh dịch một mình thì lúc đó sẽ để tên riêng của từng người, vậy đi!

Và đây là sản phẩm đầu tiên của Anh Khôi, vừa được đăng trên Tia Sáng, ở đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=6621. Bản đăng trên Tia Sáng có rút gọn lại đôi chút, còn dưới đây tôi xin đăng lại bản đầy đủ để lưu và chia sẻ với các bạn.

Cuối cùng, xin chúc mừng "dịch giả" mới Anh Khôi vừa ra mắt độc giả (!). Hy vọng sự hợp tác này sẽ đem lại nhiều sản phẩm tốt cho xã hội, ha ha!

Enjoy, các bạn nhé!
---------------
INTERNATIONAL HIGHER EDUCATION, Number 72. Summer 2013
Trang 2-4

Thất thoát chất xám hay trao đổi chất xám?[1]
Philip G. Altbach

Anh Khôi dịch

Philip G. Altbach hiện đang giữ danh hiệu Giáo sư Monan và Giám đốc Trung tâm Giáo dục Đại học Quốc tế tại Đại học Boston. E-mail: altbach@bc.edu.

Các nước giàu hiện đang lo ngại về tình trạng thiếu hụt nhân lực có kỹ năng để phục vụ nền kinh tế của mình, đặc biệt là ở trình độ cao. Nguyên nhân thì có nhiều, ví dụ như sự hiện diện của "vách đá nhân khẩu"[2] ở Nhật Bản và các nước Châu Âu, gây ra sự giảm sút đáng kể về số thanh niên ở độ tuổi học đại học, thiếu sinh viên đăng ký vào các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (gọi tắt là STEM), giảm số lượng người đi học và kèm theo đó là số lượng sinh viên tốt nghiệp thấp. Giải pháp cho tình trạng này là gì?

Một biện pháp ngày càng phổ biến là sự tăng cường giữ chân sinh viên quốc tế sau khi tốt nghiệp, tức thuyết phục những sinh viên vốn chủ yếu đến từ các quốc gia đang phát triển và các nước thu nhập trung bình ở lại làm việc sau khi tốt nghiệp. Nói vắn tắt, các nước giàu đang cướp đi chất xám của các nước đang phát triển hay đúng hơn là chất xám của bất kỳ nướcnào mà họ có thể thu hút được. Mặc dù việc thất thoát chất xám luôn tồn tại trong giới học thuật trong vòng một thế kỷ nay, tình hình này ngày càng nghiêm trọng đối với tất cả các quốc gia.

Các nước đang phát triển cũng như các quốc gia mới nổi thực sự đang đứng trước nguy cơ bị tụt hậu trong nền kinh tế tri thức toàn cầu, và điều đó sẽ gây ra những thiệt hại vĩnh viễn đối với tương lai của họ.

Hiện trạng
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, nếu nói rằng đang có những quốc gia áp dụng các chính sách nhằm chủ ý gây ra sự thất thoát chất xám thì có lẽ cũng không cường điệu lắm. Hiện nay, tỷ lệ ở ở lại không về nước của du học sinh đã khá cao.

Chẳng hạn,trong vòng gần nửa thế kỷ qua, có đến hơn 80% du học sinh Trung Quốc và Ấn Độ tốt nghiệp tại các đại học của Hoa Kỳ đã không trở về nước. Nếu nói rằng phần lớn thung lũng Silicon Valley đã được xây dựng bằng chất xám của Ấn Độ thì cũng không có gì là cường điệu. Kết quả khảo sát gần đây của Quỹ khoa học quốc gia Hoa Kỳ (National Science Foundation) cho thấy phần lớn người nhận bằng tiến sĩ từ các quốc gia đang phát triển đều có kế hoạch ở lại Mỹ và đóng góp vào nguồn nhân lực học thuật của nước này, đặc biệt trong các lĩnh vực tự nhiên-kỹ thuật (STEM). Dữ liệu tương tự từ các quốc gia Châu Âu và Australia tuy không sẵn có, nhưng cũng có thể nhận ra những khuynh hướng tương tự. Tuy nhiên, xét trên phạm vi toàn cầu thì tỷ lệ trở về của các du học sinh đang tăng lên chút ít trong bối cảnh kinh tế của các quốc gia đang phát triển được cải thiện, trong khi một số các nước giàu vẫn còn sa lầy trong suy thoái kinh tế.

Trợ cấp của người nghèo cho người giàu
Các quốc gia đang phát triển và các nước mới nổi đang thực sự đóng góp đáng kể cho các hệ thống học thuật của các nước giàu. Sinh viên quốc tế đang đóng góp đáng kể vào nền kinh tế của Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc ngay cả khi họ còn đang học. Dữ liệu từ năm 2011 cho thấy số lượng 764.000 sinh viên quốc tế học tập tại Hoa Kỳ đã đóng góp hơn 22 tỉ USD hàng năm cho nền kinh tế nước này. Các quốc gia xuất khẩu giáo dục lớn khác cũng có số liệu tương tự. Quả thật, cả Australia lẫn Vương quốc Anh, đang thu được rất nhiều tiền từ việc xuất khẩu giáo dục đại học - 17 tỷ USD hàng năm đối với Australia và 21 tỷ USD đối với Vương quốc Anh, và cả hai nước đều có những chính sách được nêu rõ ràng nhằm gia tăng thu nhập từ sinh viên quốc tế.

Nhưng điều đáng nói hơn chính là sự đóng góp của các nước mới nổi và các nước đang phát triển cho các nước giàu thông qua việc các nghiên cứu sinh đã ở lại sau khi tốt nghiệp và tham gia vào nguồn nhân lực học thuật của các nước giàu.  Dưới đây chúng tôi sẽ nêu những ví dụ từ Ấn Độ và Trung Quốc, hai quốc gia "xuất khẩu chất xám" lớn nhất thế giới. Cần lưu ý rằng các số thống kê chỉ có tính gợi ý vì số liệu chưa đầy đủ và được thu thập tại các thời điểm khác nhau.

Trong năm 2012, có đến 100.000 sinh viên Ấn Độ đến học tại Hoa Kỳ, chủ yếu ở trình độ sau cử nhân. Đại đa số những sinh viên này đều ở lại sau khi tốt nghiệp, và tham gia vào lực lượng giảng viên của nước này. Theo số liệu thống kê của UNESCO, có thể ước tính sơ khởi rằng để giáo dục một trẻ em từ tiểu học lên đến hết trình độ cử nhân thì mỗi người dân Ấn Độ đã phải đóng khoảng 7.600 USD tiền thuế - tính theo sức mua tương đương (PPP). Số tiền mỗi gia đình người Ấn phải bỏ ra cho việc giáo dục con cái cũng tốn khoảng tương đương như thế - đặc biệt là vì có khá nhiều học sinh theo học tại các trường tư nói tiếng Anh của nước ngoài hoạt động tại Ấn Độ, tức là số tiền tổng cộng ước tính lên đến 15.000 USD cho một thanh niên. Như vậy, số tiền đầu tư ước tính của Ấn Độ vào nước Mỹ, thông qua việc giáo dục 100.000 thanh niên đến trình độ cử nhân trước khi đi du học, là khoảng 1,5 tỷ USD mỗi năm.

Các số liệu tương tự từ Trung Quốc thậm chí có thể còn cao hơn. Mặc dù các số liệu về chi tiêu công cho giáo dục không sẵn có, nhưng các nghiên cứu cho thấy một gia đình Trung Quốc bình quân đầu tư khoảng $ 39,000 USD tính theo sức mua tương đương PPP cho việc giáo dục một học sinh từ tiểu học đến hết cử nhân. Riêng năm 2012 đã có đến 194.000 sinh viên Trung Quốc du học tại Hoa Kỳ. Như vậy có thể ước tính rằng người Trung Quốc đã đầu tư khoảng 7,6 tỷ USD vào tiềm năng chất xám tại nước Mỹ. Ngoài ra, còn có một nguồn kinh phí bổ sung đáng kể từ nhà nước Trung Quốc, mặc dù không có số liệu chính xác. Có thể ước đoán những đóng góp tương tự vào nền kinh tế của quốc gia xuất khẩu giáo dục lớn từ những nước đang phát triển thông qua việc gửi người đi du học. Mặc dù không phải tất cả du học sinh đều ở lại sau khi hoàn tất việc học, nhưng những con số này quả thật vẫn rất lớn.

Ngoài chi phí trực tiếp, các nước chủ nhà còn được hưởng một nguồn lợi khổng lồ từ nguồn vốn tri thức của những bộ óc xuất sắc nhất đến từ những nước đang phát triển. Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển lại chịu thiệt hại nặng nề, đặc biệt là đối với giới hàn lâm, do không thu hút được những tài năng trong nghiên cứu và giảng dạy cũng như những ý tưởng mới và sáng tạo từ những người đã được đào tạo ở nước ngoài, có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý trường đại học và các lĩnh vực khác.

Chiến lược của các nước giàu
Hai nhà nghiên cứu giáo dục đại học là Hans de Wit và Nannette Ripmeester đã cung cấp một bản tóm tắt tuyệt vời về một số chính sách nhằm tăng cường “tỷ lệ giữ chân” thông qua việc thay đổi những chính sách nhập cư, cung cấp học bổng, và liên kết chặt chẽ hơn giữa các trường đại học và người sử dụng lao động, và những chính sách khác (theo Bản tin giáo dục đại học thế giới, ngày 17 tháng 2 năm 2013). Ở cả Châu Âu và Bắc Mỹ, đều có những sáng kiến nhằm lôi kéo các nhà chuyên môn xuất sắc nhất từ các nước khác, vốn là những du học sinh, ở lại và tham gia lực lượng lao động. Các nước này đang thực hiện nhiều nỗ lực như nới rộng quy định thị thực; tạo điều kiện có việc làm; cho phép làm thêm trong thời gian học; công nhận bằng cấp dễ dàng hơn; cải thiện sự hợp tác giữa các trường đại học, chính phủ và các ngành công nghiệp; cũng như nhiều sáng kiến khác.

Các quốc gia như Anh và Úc, trong những năm gần đây vốn áp dụng những quy định khá chặt chẽ về di trú, cũng đang xem xét lại các chính sách của mình. Viện hàn lâm khoa học Hoa Kỳ cũng như các trường đại học đang chủ trương tự nới rộng chế độ thị thực để tạo điều kiện cho các du học sinh sau khi tốt nghiệp có thể ở lại và làm việc tại Hoa Kỳ. Và chẳng có một ai nhận ra sự mâu thuẫn giữa một bên là Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (Millennium Development Goals) của Liên Hiệp Quốc vốn nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển giáo dục tại các nước mới nổi, và bên kia là các chính sách nhằm thu hút nguồn chất xám tốt nhất từ các quốc gia đang phát triển của các nước giàu.

Một số nước châu Phi như Nam Phi và Botswana, vốn có hệ thống giáo dục đại học tương đối phát triển và mức lương khá hấp dẫn, cũng cố gắng thu hút tài năng từ các nước khác thuộc Châu Phi. Không những thế, tình trạng thất thoát chất xám còn diễn ra giữa các cường quốc khoa học. Chẳng hạn, nước Đức đã phải rất nỗ lực để thu hút trở lại những nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) đang làm việc tại Hoa Kỳ để trở về nước, mặc dù không mấy thành công. Đối với những người này, một sự nghiệp khoa học ổn định và mức lương cao hơn đôi chút ở Mỹ vẫn hấp dẫn hơn, còn các trường đại học Mỹ thì luôn cố gắng giữ lại những du học sinh tốt nghiệp xuất sắc nhất, bất kể quốc tịch của họ là gì.

Sự phức tạp của thế giới toàn cầu
Một khi vị trí địa lý vẫn còn quan trọng và thế giới vẫn chưa phẳng khi xét theo sức mạnh khoa học của các quốc gia, thì toàn cầu hóa rõ ràng là có tác động vào các trường đại học và các hệ thống giáo dục trên toàn thế giới. Mạng Internet đã khiến việc giao tiếp và cộng tác dễ dàng hơn. Tỷ lệ nghiên cứu và công bố do các nhà khoa học từ nhiều quốc gia đồng thực hiện đã tăng lên đáng kể ở tầng trên cùng của hệ thống. Giáo dục từ xa, các chương trình đào tạo liên kết, và các chi nhánh trường quốc tế là một khía cạnh khác của thế giới học thuật toàn cầu hóa. Tuy nhiên, tất cả những điều này vẫn không bù lại được những thiệt hại về thất thoát nhân lực.

Trung Quốc, một quốc gia với số lượng lớn các học giả làm việc ở nước ngoài, đã xây dựng một số chương trình để thu hút các nhà nghiên cứu hàng đầu của Trung Quốc trở về nước. Việc cho phép bổ nhiệm song song tại hai quốc gia cũng đã được áp dụng trong một số lĩnh vực then chốt để các trường đại học Trung Quốc có thể thu hút được các học giả hàng đầu vẫn muốn ở lại nước ngoài. Các quốc gia đang phát triển và thu nhập trung bình khác cũng tìm cách tận dụng cộng đồng khoa học của kiều bào thông qua việc khuyến khích các dự án nghiên cứu hợp tác, thu hút đầu tư, tài trợ cho các tổ chức khoa học, và những việc khác. Các chương trình thành công ít ra cũng đảm bảo được những tài năng ở trong nước có thể tận dụng được kinh nghiệm chuyên môn từ đồng bào sống ở nước ngoài. Các quốc gia như Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Scotland, đều có những chương trình như vậy.

Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp này, thì những trung tâm khoa học lớn của thế giới vẫn có ưu thế vì những lý do rất rõ ràng. Hơn nữa, vị trí địa lý rõ ràng là rất quan trọng: dù sao thì sự hiện diện trong một cộng đồng khoa học vẫn có sức thu hút mạnh mẽ hơn so với việc giao tiếp qua Internet hoặc những kỳ nghỉ phép hoặc nghỉ hè tại nước ngoài. Chưa kể đến những yếu tố khác, một sự nghiệp khoa học ổn định, mức lương hấp dẫn, tự do học thuật, khả năng tiếp cận không hạn chế đến những ý tưởng khoa học và các tư tưởng mới nhất ở các trung tâm khoa học lớn cũng đã đủ sức hấp dẫn lớn đối với các nhà khoa học từ nước ngoài. Sự thực là các chương trình thu hút các nhà khoa học trở về nước cũng như các nỗ lực hạn chế việc thất thoát chất xám từ cộng đồng khoa học trong nước thường không mấy thành công. Vì chỉ đến khi nào các trường đại học tại nước đang phát triển có được nền văn hóa học tập và cơ sở vật chất mà các học giả hàng đầu mong đợi, bao gồm cả tự do học thuật, tiếp cận thông tin không hạn chế, và phòng thí nghiệm tối tân, thì họ mới có thể hy vọng sẽ thu hút và giữ chân những tài năng khoa học hàng đầu trong nước, bằng không thì dù các nước giàu có thay đổi chính sách cũng  sẽ chẳng giúp được gì.

Công lý trong học thuật?
Các quốc gia "siêu cường học thuật" liệu có trách nhiệm gì đối với các hệ thống học thuật của các nước đang phát triển hay không? Hiện nay chẳng có ai nhắc đến trách nhiệm của các nước giàu trong việc khuyến khích những người tốt nghiệp tiến sĩ từ các nước đang phát triển trở về nước để xây dựng các trường đại học, và cải thiện chất lượng của hệ thống khoa học còn non trẻ của các nước này. Ngược lại, người ta chỉ quan tâm đến việc làm sao cải thiện "tỷ lệ giữ chân" và nới rộng luật di trú để thu hút tối đa tài năng từ các nước đang phát triển sang các nước giàu. Trong bối cảnh Liên Hiệp Quốc đã đề ra Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ, chúng ta có nên đặt vấn đề các nước giàu cần ít nhất phải hoàn lại cho các nước nghèo những chi phí phát sinh do  các du học sinh của nước họ không trở về nước hay không? Có nhiều cách để ít nhiều cải thiện tình hình hiện nay, ví dụ, như cung cấp các chương trình đào tạo tiến sĩ liên kết nhằm tạo điều kiện cho các học giả trẻ của các nước đang phát triển có cơ hội học tập ở nước ngoài trong quá trình học tiến sĩ nhưng vẫn giữ mối liên kết với trường đại học của mình, đồng thời phát triển năng lực nghiên cứu. Ít ra, bằng cách này thì các nước đang phát triển cũng không còn phải trực tiếp tài trợ cho các hệ thống khoa học của những nước giàu như tình trạng hiện nay nữa.
---





[2] Vách đá nhân khẩu, tiếng Anh là demographic cliff, là thuật ngữ để chỉ tình trạng dân số già ở các nước phát triển dẫn đến nhiều vấn đề cho nền kinh tế vì  không đủ nhân lực để thay thế

No comments:

Post a Comment