Bài đăng dưới đây tôi là bản gốc của bài vừa đăng trên báo Nhân Dân cuối tuần (tôi chưa nhìn thấy bản in nhưng được báo là đăng trên trang nhất cơ đấy!) với tựa bài là "Siết chặt đào tạo tại chức" (ở đây: http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/chuyen-de/item/21000602-.html). Bài đăng trên Nhân Dân đã được biên tập cắt đi ít nhiều để vừa đủ số từ trên khoảnh đất đã dành sẵn, và cơ bản không thay đổi ý của tôi. Tuy nhiên bản gốc cũng có những nuances thú vị, không quan trọng về thông tin khách quan nên đã bị cắt đi, nhưng nếu để lại cũng bổ sung thêm được cho quan điểm và phong cách cá nhân của tôi, nên tôi đăng lại ở đây để lưu và chia sẻ với mọi người.
Nói thêm một chút trước khi đăng bài: Việc được báo ND mời viết bài đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Bạn phóng viên của báo Nhân Dân khi liên hệ với tôi cho biết đã có đọc những bài tôi viết ở trên các báo và tạp chí, và thậm chí cũng đã đọc trên blog của tôi nữa! Một bất ngờ rất thú vị, vì mọi người đều biết lâu nay tôi vẫn cố gắng giữ một quan điểm độc lập, khách quan, không chịu "làm khoa học minh họa chính sách", không bị ảnh hưởng của các "chủ trương lớn" của ngành, dù tôi cũng đang ở trong ngành giáo dục (và đã ở đó suốt cả cuộc đời làm việc của mình). Nói theo ngôn ngữ "thời thượng" mà hiện nay người ta hay dùng, thì tôi là một tiếng nói "phản biện", mà còn phản biện "bền bỉ" nữa chứ như ai đó đã nói, thế mà báo Nhân Dân vẫn cho đăng bài, thì quả là một điều bất ngờ thật.
Phải chăng đây là dấu hiệu đáng mừng, rằng Đảng CSVN đang có cởi mở hơn, lắng nghe dư luận và nghe các tiếng nói phản biện độc lập hơn? Chỉ mong được như thế, vì, tại sao không nhỉ, bất cứ ai và bất cứ tổ chức nào, kể cả Đảng Cộng sản VN, cũng đều phải có khả năng thay đổi theo chiều hướng thích nghi với môi trường bên ngoài chứ (nếu không muốn bị đào thải)! Cái đó nằm trong phép biện chứng của Karl Marx mà, đúng không nhỉ?
---------------------
Nói thêm một chút trước khi đăng bài: Việc được báo ND mời viết bài đã làm tôi hết sức ngạc nhiên. Bạn phóng viên của báo Nhân Dân khi liên hệ với tôi cho biết đã có đọc những bài tôi viết ở trên các báo và tạp chí, và thậm chí cũng đã đọc trên blog của tôi nữa! Một bất ngờ rất thú vị, vì mọi người đều biết lâu nay tôi vẫn cố gắng giữ một quan điểm độc lập, khách quan, không chịu "làm khoa học minh họa chính sách", không bị ảnh hưởng của các "chủ trương lớn" của ngành, dù tôi cũng đang ở trong ngành giáo dục (và đã ở đó suốt cả cuộc đời làm việc của mình). Nói theo ngôn ngữ "thời thượng" mà hiện nay người ta hay dùng, thì tôi là một tiếng nói "phản biện", mà còn phản biện "bền bỉ" nữa chứ như ai đó đã nói, thế mà báo Nhân Dân vẫn cho đăng bài, thì quả là một điều bất ngờ thật.
Phải chăng đây là dấu hiệu đáng mừng, rằng Đảng CSVN đang có cởi mở hơn, lắng nghe dư luận và nghe các tiếng nói phản biện độc lập hơn? Chỉ mong được như thế, vì, tại sao không nhỉ, bất cứ ai và bất cứ tổ chức nào, kể cả Đảng Cộng sản VN, cũng đều phải có khả năng thay đổi theo chiều hướng thích nghi với môi trường bên ngoài chứ (nếu không muốn bị đào thải)! Cái đó nằm trong phép biện chứng của Karl Marx mà, đúng không nhỉ?
---------------------
Giải pháp
nào cho hệ đào tạo tại chức?
Vũ Thị Phương
Anh
Mục Xã hội trên
tờ Tiền phong Online mới đây có một mẩu tin đáng chú ý: “Tuyển dụng công chức: Không được phân biệt tại chức, chính quy”. Theo
đó, tại Hội nghị
trực tuyến về Cải cách hành chính, Cải cách chế độ công vụ, công chức
ngày 26/7/213, Bộ Nội vụ đã cho biết một số địa phương vẫn còn phân biệt văn
bằng, chứng chỉ, loại hình đào tạo trong tuyển dụng, mặc dù đã được nhắc nhở bằng văn bản và yêu cầu thực hiện đúng
quy định, nhưng có nhiều Bộ, ngành, địa phương vẫn không tiếp thu, không thực
hiện đúng các quy định của pháp luật, gây nên nhiều bức xúc trong dư luận xã
hội.[1]
Tẩy chay bằng tại chức: Càng nhắc nhở càng
lan rộng?
Sự kỳ thị đối
với tấm bằng tại chức là vấn đề tồn tại đã lâu mà cho đến nay dường như vẫn
chưa có cách gì để giải quyết hữu hiệu. Còn nhớ vào năm 2010, dư luận đã một
phen xôn xao khi báo chí đưa tin Sở Nội vụ của thành phố Đà Nẵng là từ chối
tuyển dụng các viên chức có bằng tại chức. Đáng nói là mặc dù sai luật, nhưng
có rất nhiều người đồng tình với cách làm của Đà Nẵng, thậm chí còn khen thành
phố này dũng cảm vì đã dám làm trái luật để loại ra những tấm bằng kém chất
lượng.
Rất nhanh sau
đó, Bộ Giáo dục đã có chủ trương xiết chặt việc quản
lý đào tạo tại chức, bằng cách giao chỉ
tiêu tuyển sinh dựa vào năng lực thực hiện của trường (trước đó cách làm này
chỉ áp dụng cho hệ chính quy)[2].
Tuy nhiên, tình trạng tẩy chay bằng tại chức không hề giảm đi mà tiếp tục tăng lên. Bắt đầu với Đà Nẵng vào năm
2010, danh sách các tỉnh được bổ sung thêm Nam Định năm 2011, Quảng Nam năm 2012
và bây giờ là hàng loạt các địa phương khác như Quảng Bình, Hà Nam, Hải Dương, và
cả thủ đô Hà Nội[3]
nữa. Nhưng dù xảy ra ở địa phương nào thì lý do để các tỉnh nói không với bằng
tại chức cũng chỉ có một thôi, đó là: chất lượng kém!
Hệ đào tạo
tại chức: Không còn khả năng cải thiện?
Đào tạo ra nhưng không có chất
lượng để rồi không dùng được, thật là một sự lãng phí. Nhưng sự tồn tại của hệ
tại chức rõ ràng là cần thiết để tạo điều kiện cho những người ngoài độ tuổi đi
học truyền thống nâng cao trình độ và cải thiện cơ hội nghề nghiệp. Vậy phải có
cách nào để vừa duy trì hệ đào tạo tại chức (hoặc một hệ đào tạo nào khác bên
cạnh hệ đào tạo chính quy) theo chủ trương học tập suốt đời, đồng thời chấm dứt
việc tẩy chay người có bằng tại chức, giải quyết dứt điểm tình trạng lãng phí
thời gian, công sức của người học vì có bằng mà không sử dụng được như hiện
nay?
Đã có nhiều ý kiến hay quanh vấn
đề này nhằm góp tay tìm ra câu trả lời cho câu hỏi trên. Gần đây nhất, ông
Trịnh Ngọc Thạch, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh-thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, trong một phát biểu trả
lời phỏng vấn của báo Lao Động[4], đã nêu quan điểm khá
hợp lý của ông về các giải pháp cần thực hiện để nâng cao chất lượng của hệ đào
tạo tại chức như sau:
(1) Kiểm soát tốt khâu đầu vào, hạn chế tuyển sinh ở một quy mô vừa phải,
căn cứ trên khả năng của cơ sở đào tạo.
(2)
Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy cần phù hợp với đối tượng sinh
viên, không bắt buộc phải giống hệt với sinh viên chính quy.
(3) Chú trọng đáp ứng nhu cầu sử dụng của người học và của
thị trường lao động.
Ba giải pháp nêu trên là khá hợp
lý và toàn diện, vì chúng có liên quan đến chất lượng của cả 3 khâu trong quá
trình đào tạo là chất lượng đầu vào, chất lượng của quá trình đào tạo, và chất
lượng đầu ra. Điều quan trọng là cần đánh giá xem các giải pháp vừa nêu có thể
khả thi trong điều kiện của chúng ta hay chăng.
Trước
hết, có thể thấy việc kiểm soát quy mô đầu vào là hoàn toàn có thể thực hiện
được, và đang được Bộ GD-ĐT thực hiện suốt mấy năm qua. Tuy nhiên, theo
quan điểm hiện đại về giáo dục thì đầu vào không phải là yếu tố tác động có
tính quyết định đến chất lượng. Đúng ra, với đối tượng sinh viên trưởng thành (mature
students – khái niệm gần tương đương với sinh viên tại chức của Việt Nam, để
chỉ những sinh viên đã quá độ tuổi đi học đại học, thường tính từ 24 tuổi trở
lên) thì không nên quá khắt khe như với sinh viên học đúng tuổi.
Ở các nước tiên tiến trên thế
giới, ví dụ như ở Mỹ và ở Úc, yêu cầu đầu vào đối với các sinh viên trưởng
thành rất mềm dẻo linh hoạt, thậm chí chấp nhận cả những người chưa hoàn tất
bậc trung học phổ thông, nếu xét thấy quá trình làm việc và các kỹ năng đã tích
lũy có thể đảm bảo việc học thành công của sinh viên. Và một khi đã được nhận
vào học thì hoàn toàn không hề có sự phân biệt nào giữa các sinh viên: dù là
trưởng thành hay đúng tuổi, tất cả mọi sinh viên ra trường đều được cấp cùng
một loại bằng hoàn toàn giống như nhau.
Trong
khi đó, khả năng cải thiện nội dung và phương pháp giảng dạy, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người học và của
thị trường lao động của các chương trình đào tạo hệ tại chức hiện nay là rất
thấp, có thể nói hầu như sẽ không có thay đổi gì trong điều kiện hiện nay, nếu
không có một điểm tựa nào để đột phá. Chương trình thiếu cập nhật, quá thiên về
lý thuyết, không gắn với thị trường lao động, phương pháp giảng dạy lạc hậu, đó chính là những điểm yếu trầm kha của giáo
dục đại học Việt Nam, không chỉ riêng với hệ tại chức mà còn ngay cả với hệ
chính quy nữa. Đặc biệt, nhìn từ góc độ nhà trường và giảng viên thì rõ ràng
hiện nay đa số các chương trình đào tạo tại chức chỉ được coi là “chương trình
hạng hai”, là “nồi cơm” của các thầy và của nhà trường, nơi trò không muốn học
và thầy không muốn dạy, chỉ làm việc quấy quá cho xong. Điều này cũng đã được
một nhà giáo kiêm blogger Chu Mộng Long chia sẻ trong một bài viết gần đây.[5]
Vì vậy, nếu tiếp tục duy trì hệ tại chức giống như hiện nay thì viễn cảnh trước
mắt sẽ là sự tiếp tục gia tăng tẩy chay đối với bằng tại chức, không chỉ từ
phía các nhà tuyển dụng mà còn từ các sinh viên, vì đi học để làm gì khi tấm
bằng tốt nghiệp bị tẩy chay và không thể sử dụng?
Đi tìm một khâu đột phá
Tình trạng hiện nay của hệ tại
chức đang đặt nhà nước trước một số lựa chọn. Lựa chọn đầu tiên là Nhà nước
không can thiệp gì cả, mà để cho cơ chế thị trường tự điều chỉnh. Điều này có
nghĩa là nếu các cơ sở đào tạo nào không tự mình tìm ra cách cải thiện chất
lượng của chương trình và khả năng đáp ứng thị trường lao động thì đương nhiên sẽ
không còn thu hút được người học, và chương trình đào tạo tại chức của cơ sở ấy
sẽ phải tự đóng cửa. Thực ra, đây là điều đang diễn ra tại Việt Nam hiện nay,
dù nó không phải là cách làm tốt nhất. Nếu chúng ta chấp nhận lựa chọn này thì tình
trạng lộn xộn hiện nay sẽ tiếp tục được duy trì, gây lãng phí rất lớn về thời
gian, tiền bạc và công sức của những sinh viên đã học xong nhưng không sử dụng
được tấm bằng của mình, đồng thời sẽ gây ra nhiều bức xúc trong xã hội.
Lựa chọn thứ hai là Nhà nước giúp
các trường duy trì hệ đào tạo tại chức bằng cách xử lý nghiêm những trường hợp
tẩy chay bằng tại chức. Cách làm này không sai về mặt pháp lý, nhưng không có
tính nhân văn và sai lầm về phương pháp vì không thể nào ép người sử dụng lao
động chấp nhận những nhân viên thiếu kỹ năng do không được đào tạo đến nơi đến
chốn. Vả lại, nếu bắt ép thì có lẽ Nhà nước cũng chỉ có thể buộc các cơ quan và
đơn vị công lập phải nhận sinh viên tại chức thôi, chứ không thể bắt ép các
doanh nghiệp tư nhân, tạo ra một nghịch lý là bằng tại chức học ra để vào làm
cho cơ quan nhà nước!
Lựa chọn cuối cùng, và cũng là
lựa chọn tốt đẹp nhất nếu có thể thực hiện được, đó là tìm ra được một khâu đột
phá trong cách quản lý hệ đào tạo này, từ đó cải thiện nó để nó có thể tồn tại một cách xứng đáng trong hệ thống
giáo dục của đất nước. Nhưng khâu đột phá đó có thể là gì?
Không
phải là ngẫu nhiên mà các nước có nền giáo dục tiên tiến lại vô cùng chú trọng
khâu kiểm định chất lượng, trong khi các nước yếu hơn thì thường ít chú trọng
đến kiểm định hơn. Có thể nói, kiểm định
chất lượng là bí quyết để thực hiện thành công các giải pháp đã nêu ở phần
trên. Cần biết rằng kiểm định chất lượng có hai cấp độ với các mục tiêu khác
nhau là kiểm định cấp trường là điều mà hệ thống giáo dục Việt Nam đã quen, và
kiểm định nghề nghiệp (còn gọi là kiểm định cấp chương trình đào tạo) có liên
quan trực tiếp đến chất lượng đầu ra của sinh viên tốt nghiệp thì ở Việt Nam
hoàn toàn chưa hề tồn tại.
Chính
kiểm định cấp chương trình mới là khâu đột phá nhằm giải quyết vấn đề nan giải
liên quan đến hệ tại chức tại Việt Nam. Các tổ chức kiểm định nghề nghiệp có
gắn kết rất chặt chẽ với các hiệp hội nghề nghiệp nên họ hiểu rất rõ nhu cầu
thị trường lao động. Khi một chương trình được kiểm định thì tất cả tất cả
những thông tin về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh
giá người học, cơ sở vật chất phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu, sự hài
lòng của sinh viên, khả năng kiếm việc làm và cơ hội thăng tiến trong nghề
nghiệp của cựu sinh viên vv đều được xem xét kỹ lưỡng, được đánh giá và đưa ra
những yêu cầu cải thiện nếu có. Có thể nói, kiểm định chương trình chính là cơ
chế kiểm soát bên ngoài để giúp các chương trình đào tạo luôn đi đúng hướng và
đạt được mục tiêu mà mình đã đề ra.
Như
vậy, để hệ tại chức có thể được cải thiện thì Việt Nam cần nhanh chóng thiết
lập hệ thống kiểm định nghề nghiệp, đồng thời đưa yêu cầu về kiểm định thành
một điều kiện bắt buộc về năng lực để có thể đào tạo tại chức. Có như vậy thì
mới có thể “cứu” được hệ đào tạo tại chức để đưa nó thoát ra khỏi viễn cảnh “trông
chết cười ngạo nghễ” như hiện nay!
No comments:
Post a Comment