Showing posts with label citations and publications. Show all posts
Showing posts with label citations and publications. Show all posts

Saturday, February 26, 2011

"Công bố khoa học, kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học" (3): Phần kết luận

Do phần 2 của bài viết đã bị đục bỏ nên kết luận của bài này sẽ có vẻ ... không thuyết phục lắm do thiếu thông tin. Ngoài ra, do bài viết của tôi viết vội theo đặt hàng, được viết trong chỉ một ngày để kịp deadline (số liệu thì có sẵn) nên bây giờ khi đọc lại thì thấy nó hơi ... cụt cụt, không hay lắm. Nhưng thôi, bài đã viết xong rồi, mục đích chia sẻ thông tin và góp tiếng nói ở hội thảo cũng đã xong, tôi cũng cứ đăng lên đây để mọi người cùng đọc, và góp ý, chỉ trích, chê bai gì cũng được, cũng tốt cả, vì đều là chia sẻ ý tưởng mà!

Enjoy (if it is enjoyable, that is!)

---
Khi xem xét một số chỉ số hoạt động cốt lõi (KPI) của 6 trường trong khối AUN và thứ hạng đạt được của chúng trên bảng xếp hạng quốc tế, có lẽ ta đã cảm nhận được phần nào thực trạng của các trường đại học của Việt Nam so với các trường trong khu vực. Những số liệu sơ khởi trên cũng đủ cho thấy chúng ta còn phải phấn đấu rất nhiều mới thực sự sánh vai được với các trường khác trong khu vực, chưa nói đến mơ ước có thể chiếm được một vị trí nào đó trên các bảng xếp hạng quốc tế.

Một điểm cần lưu ý là việc đầu tư cho nghiên cứu khoa học là một công việc tốn kém cả thời gian, tiền bạc và công sức, và không thể có nghiên cứu khoa học nếu không có đầu tư. Làm sao để có được nguồn đầu tư thỏa đáng cho các nhà khoa học, đó là bài toán dành cho những nhà lãnh đạo của ĐHQG-HCM nói riêng và của toàn ngành giáo dục của VN nói chung – một bài toán không hề dễ!

Bài học của Trung Quốc: tăng cường mạnh mẽ sự đầu tư của nhà nước cho những ngành khoa học mũi nhọn, kèm theo đó là chính sách quản lý kinh phí nghiên cứu theo hiệu suất đạt được (số bài báo công bố, số bằng phát minh, sáng chế trên mỗi đề tài được cấp). Bài học này có lẽ cũng áp dụng được tại ĐHQG-HCM và các trường đại học trọng điểm, định hướng nghiên cứu khác của VN chăng?
----------
Phần viết thêm nhân dịp đăng bài này trên blog:

Trước đây tôi đã viết một báo cáo với đại ý rằng chỉ có tăng nguồn lực thôi thì không thể nào làm thay đổi bộ mặt của một nền giáo dục. Phát biểu ấy của tôi là nhằm chống lại khuynh hướng cách đây vài năm khi ngành giáo dục đang hăm hở với kế hoạch xây dựng vài trường đại học đẳng cấp quốc tế tại VN trong vòng thời gian khoảng một vài thập niên. Trong thời gian đó, dường như có tồn tại một quan điểm cho rằng chỉ cần có thật nhiều tiền, có cơ sở vật chất tốt, rồi "nhập khẩu" một vị hiệu trưởng của nước ngoài với một số giảng viên xịn cũng từ nước ngoài vào, thì "hô, biến", chẳng mấy chốc những trường đại học đẳng cấp sẽ lù lù hiện ra trước mắt chúng ta. Đây chính là quan điểm thiên về nguồn lực (resources, hoặc input) trong giáo dục, không chỉ có ở VN mà còn tồn tại dai dẳng ở nhiều nơi trên thế giới, dù đã có nhiều nhà lý luận giáo dục chỉ ra là chúng sai lầm.

Nhưng hôm nay, khi đọc lại bài này thì tôi lại thấy vấn đề đối với việc công bố khoa học tại VN trước hết là vấn đề nguồn lực. Cứ thử so sánh lại các chỉ số hoạt động cốt lõi của các trường VN và các trường trong khu vực mà tôi đã đưa lên trong entry số 2 của loạt bài này thì sẽ rõ. Trong khi ở các nước người ta có tỷ số thầy trên trò là khoảng 1/10, thì ở VN tỷ số đó là 1/30. Ngoài ra, một lực lượng lao động trí tuệ (miễn phí) rất quan trọng của các trường đại học là các nghiên cứu sinh trẻ, sáng láng và ham học hỏi, những người sẽ bỏ công sức lao động trí óc và thời gian của mình ra để thực hiện các đề tài nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của thầy và cùng viết ra các bài báo, các công bố khoa học. Thông thường, các trường đại học nghiên cứu của các nước đều có tỷ số học viên sau đại học so với sinh viên đại học là trên dưới 1:1. Nhưng thử nhìn những con số của 2 ĐHQG của VN thì mới thấy tỷ số của chúng ta thật nhỏ bé, thảm hại làm sao!

Chỉ xét về mặt thời gian mà thôi, thì với khối lượng công việc và nguồn nhân lực như vậy, thử hỏi làm sao mà các thầy cô của chúng ta có thể có nhiều công bố khoa học được? Ấy vậy mà hiện nay dường như chúng ta lại đang đưa ra những chính sách thúc đẩy nghiên cứu và công bố khoa học theo kiểu trừng phạt, tức nếu không có bao nhiêu bài báo được đăng trên các tờ báo có impact factor như thế, như thế, có chỉ số trích dẫn như thế, như thế, thì không được xét nọ xét kia, vv. Hệ quả của những chỉ tiêu phi thực tế như vậy có lẽ chúng ta đã hiểu quá rõ rồi, vì TQ cũng là một tấm gương tầy liếp. Đúng, nghiên cứu là cần, công bố quốc tế thì quá tốt, nhưng nếu không trồng cấy, nuôi dưỡng chăm bón cho đủ ngày đủ tháng, thì làm sao lại đòi hái trái ngọt được nhỉ? Có ai còn nhớ câu truyện gà đẻ trứng vàng hay không vậy?

Ôi, ước mơ đẳng cấp quốc tế của đại học VN ơi, "ta chờ em đến bao giờ"?

"Công bố khoa học, kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học" (2)

Như đã nói ở bài 1 của loạt bài này, phần 2 của bài viết có liên quan trực tiếp đến ĐHQG-HCM nơi tôi công tác nên tôi đã loại ra, không đăng trên blog này. Dưới đây là phần 3 của bài viết của tôi.
---------
3. Công bố khoa học và việc xếp hạng đại học

Trong tất cả các bảng xếp hạng đại học, công bố khoa học cũng là một yêu cầu quan trọng, chiếm một tỷ trọng lớn trong kết quả xếp hạng cuối cùng. Mà không chỉ là công bố, các bảng xếp hạng còn có yêu cầu về chỉ số trích dẫn (citation index) của các bài báo. Ngay cả trong bảng xếp hạng QS dành cho châu Á, vốn là một bảng xếp hạng không nặng về nghiên cứu như những bảng xếp hạng khác như ARWU, thì yêu cầu về công bố khoa học cũng vẫn chiếm đến 30% tổng số điểm, trong đó 15% là số lượng báo cáo trên đầu giảng viên, và 15% là số lượng trích dẫn trên đầu giảng viên (xem Bảng 2, hình bên dưới).

Bảng 2 – Các tiêu chí xếp hạng trường đại học theo QS (so sánh giữa xếp hạng quốc
tế và xếp hạng châu Á)

Riêng trong khối các trường thuộc AUN-QA, hiện đang có tổng số 26 trường, thì có đến 13 trường đang tham gia xếp hạng với QS (cả xếp hạng quốc tế lẫn xếp hạng châu Á). Điều này cho thấy các trường được lọt vào danh sách top 500 của thế giới phải là những trường có nghiên cứu mạnh, vì những trường này không chỉ có nhiều bài báo (thường là bài báo quốc tế), mà còn là những bài báo có ảnh hưởng trong cộng đồng khoa học vì được đọc và trích dẫn nhiều lần (có chỉ số trích dẫn cao). Kết quả xếp hạng của các trường thuộc AUN trong 500 thứ hạng đầu của các bảng xếp hạng thế giới của QS năm 2010 đã được nêu trong một số bài viết của tôi trên blog này.

Tình hình công bố khoa học tại các trường này ra sao? Tiếc thay, chúng tôi không
có được số liệu đầy đủ của tất cả các trường thành viên, nhưng một số thông tin dưới đây cũng có thể cho chúng ta nắm được khái quát tình hình tại các trường để tự so sánh (xem Bảng 4 - sorry, file bị lỗi, không đưa lên được, nhưng các bạn có thể đọc phần mô tả tóm tắt bằng lời của tôi dưới đây).

Có thể đưa ra một số nhận xét tổng quát về các chỉ số hoạt động và thứ hạng của các trường trong Bảng 4:

- Cả hai Đại học quốc gia của Việt Nam đều có tỷ lệ bài báo quốc tế trên đầu giảng viên kém xa gấp nhiều lần so với NUS (hạng 31 của QS 2010), với tỷ lệ 1 bài/ 0.77 giảng viên). Ngay cả hai trường đại học hàng đầu của Thái Lan là Chulalongkorn (hạng 180 của QS 2010) và Mahidol (hạng 228 của QS 2010) cũng vượt hai Đại học quốc gia rất xa, tỷ lệ trung bình là 1 bài/ 3 giảng viên.

- Cả hai Đại học quốc gia của Việt Nam đều có số lượng sinh viên rất lớn (trên 40 ngàn sinh viên, chỉ đứng sau ĐH Philippines), nhưng lại có số lượng giảng viên thấp nhất trong 6 trường (chỉ trong khoảng 1800-2400 giảng viên).

- Cả hai Đại học quốc gia của Việt Nam đều có tỷ số nhân viên phục vụ so với giảng viên ở mức thấp nhất, thấp hơn 1:1, trong khi tất cả các trường còn lại đều cao hơn mức 1:1, đặc biệt tỷ số tại NUS đạt mức 2,5:1.

- Tỷ lệ lượng giáo sư, phó giáo sư trên tổng số giảng viên tại hai Đại học quốc gia
của Việt Nam cũng ở mức rất thấp so với hai đại học hàng đầu của Thái Lan (Việt Nam: từ 7 đến 16% giảng viên có chức danh GS, PGS; Thái Lan: 30 đến 34% giảng viên có chức danh GS, PGS.)

- Tỷ lệ học viên sau đại học trên tổng sinh viên của hai trường hàng đầu của Thái Lan là rất cao, trên 50 đến gần 60%.

Ghi chú: những thông tin đưa trong phần này đều là những thông tin công khai lấy từ chính trang web của các trường được so sánh.

(còn tiếp)

"Công bố khoa học, kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học" (1)

Tôi đang viết dở dang bài "Tám biện pháp", viết một cách ngẫu hứng nhằm lưu lại những cảm nghĩ của mình khi đọc bài viết, đồng thời đưa lên cho các bạn đọc chơi, thì được một tờ tạp chí được xem là có uy tín trong báo giới lại đề nghị tôi hoàn tất bài viết để gửi cho họ.

Tôi đã đồng ý, cũng đã viết xong và gửi đi (hơi vội cho kịp deadline nên có lẽ không hay lắm). Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc tôi không thể đăng nó lên blog trước khi tờ tạp chí ấy sử dụng, có nghĩa là các bạn phải chờ cho đến khi báo đăng thì mới có thể đọc tiếp được.

Thôi thì trong khi chờ đợi báo đăng xong để tôi đưa lên phần còn lại của bài viết thì xin gửi đến các bạn một phần trong bài viết của tôi nhằm phục vụ cho một hội thảo cách đây ít lâu, liên quan đến công bố khoa học, kiểm định và xếp hạng đại học - như đã nêu rõ trong tựa bài viết. Xin nói thêm: bài viết này nói về ĐHQG-HCM, nhưng để giữ nguyên tắc không công bố thông tin nội bộ ra bên ngoài vì mình không có quyền sở hữu đối với thông tin ấy, tôi đã cắt bỏ tất cả những gì liên quan đến cơ quan, chỉ để lại những phần mang tính lý luận hoặc những thông tin tổng quát mà ai cũng biết mà thôi. Các bạn chịu khó đọc bài này trong khi chờ đợi đọc nốt bài "tám biện pháp" vậy nhé!

-----------

CÔNG BỐ KHOA HỌC, KIỂM ĐỊNH CHẤT LƯỢNG VÀ XẾP HẠNG ĐẠI HỌC
Vũ Thị Phương Anh
Bài viết đã được công bố trong Hội thảo về Công bố khoa học do ĐHQG-HCM tổ chức vào tháng 12/2010


1. Công bố khoa học: yêu cầu bắt buộc đối với giảng viên đại học

Khác với một giáo viên trung học chỉ có nhiệm vụ giảng dạy, các giảng viên đại
học ngoài nhiệm vụ giảng dạy còn có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, nếu
công tác giảng dạy của một giảng viên có thể dễ dàng quản lý vì đó là một việc làm mà
ai cũng có thể theo dõi thông qua lịch trình giảng dạy, đề cương môn học, danh sách sinh viên, kết quả thi cử, và cả các ý kiến phản hồi của sinh viên về giảng viên và môn học, thì công tác nghiên cứu lại là một việc làm âm thầm, không nói ra thì thường là không có ai biết.

Đó chính là lý do tại sao các trường đại học phương Tây đều đòi hỏi mọi giảng
viên đại học phải có các công bố khoa học (publications) như một bằng chứng về năng
lực để có thể bổ nhiệm vào các chức danh giáo sư, phó giáo sư, đồng thời sử dụng các
số liệu về công bố khoa học để đánh giá hiệu suất (productivity) của các giảng viên hàng năm, làm cơ sở để khen thưởng, đề bạt và thăng chức. Và điều này giải thích cho sự tồn tại của một câu nói rất quen thuộc ở các trường đại học phương Tây, đó là: “Công bố hay là chết” (publish or perish)!

Không phải chỉ có các trường đại học ở phương Tây mới đòi hỏi các giảng viên
phải có công bố khoa học, mà từ cuối năm 2004, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học (QĐ 38) thì công bố khoa học
đã trở thành một yêu cầu bắt buộc đối về chất lượng đối với các trường đại học của Việt Nam. Yêu cầu về số lượng các bài báo khoa học hàng năm trên các tạp chí chuyên ngành (không phân biệt công bố trong nước hay quốc tế) trong các trường đại học theo QĐ 38 (Tiêu chí 7.3) là như sau:

+ Đối với các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và nông-lâm-ngư: 1 bài / 6-15 giảng
viên (mức thấp); 1 bài/ tối đa 5 giảng viên (mức cao);
+ Đối với các ngành sư phạm, y-dược, kinh tế, khoa học xã hội: 1 bài/ 11-20 giảng
viên (mức thấp); 1 bài/ tối đa 10 giảng viên (mức cao);
+ Đối với ngành nghệ thuật, thể dục - thể thao 1 bài/ 13-22 giảng viên (mức thấp); 1
bài/ tối đa 12 giảng viên (mức cao).

Như vậy, mức trung bình cho một đại học đa ngành đa lãnh vực và định hướng
nghiên cứu như ĐHQG-HCM thì chỉ tiêu về bài báo khoa học là 1 bài/ 5-10 giảng viên/
năm (không có các ngành nghệ thuật, thể dục – thể thao).

Nhìn chung, đây là một yêu cầu không cao so với khu vực và thế giới, và là một
mức chấp nhận được đối với các trường đại học công lập lớn, lâu đời và có truyền thống
như các trường thành viên của ĐHQG-HCM. Tuy nhiên, ngay cả với yêu cầu này đa số
các trường đại học của Việt Nam được đánh giá ngoài theo QĐ 38 đều chỉ đạt ở mức
thấp, thậm chí có những trường bị đánh giá là không đạt hoặc chấp nhận không đánh giá.

Sau vòng kiểm định 20 trường đầu tiên, Bộ GD-ĐT đã xin ý kiến các chuyên gia
về chất lượng trong và ngoài nước cũng như và các trường tham gia kiểm định về tính
hợp lý của bộ tiêu chuẩn tạm thời. Nhiều ý kiến đã được đóng góp, trong đó có ý kiến
góp ý về tiêu chí bài báo khoa học. Đa số các ý kiến cho rằng không nên đưa ra những
con số cứng nhắc, mang tính áp đặt từ trên xuống về số lượng bài báo, mà cần đưa ra một yêu cầu tương đối, trong đó một yếu tố cần được cân nhắc là sự tương ứng giữa công bố khoa học với kinh phí được cấp.

Điều này là hợp lý, vì hiện nay cho nghiên cứu khoa học từ các trường, viện
nghiên cứu công lập chủ yếu là do kinh phí nhà nước cấp, trong khi các trường ngoài
công lập thì không có nguồn kinh phí này mà phải tự lấy kinh phí của trường hoặc tìm
các hợp đồng nghiên cứu từ bên ngoài. Ngoài ra, sự đầu tư của nhà nước cho các khối
ngành khác nhau là rất khác nhau, trong đó mức độ đầu tư cao nhất thường rơi vào các
ngành kỹ thuật công nghệ, hoặc khoa học tự nhiên, còn đầu tư cho các ngành xã hội và
đặc biệt là các ngành nhân văn và ngoại ngữ là rất thấp.

Vì vậy, tiêu chí 7.3 (theo QĐ 65/2007) đã được điều chỉnh thành “số lượng bài
báo phải tương ứng với số đề tài khoa học” – một yêu cầu hợp lý hơn rất nhiều so với
trước đây. Nguyên văn tiêu chí 7.3 theo bộ tiêu chuẩn mới như sau:

Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước và quốc tế tương ứng với số đề tài nghiên cứu khoa học và phù hợp với định hướng nghiên cứu và phát triển của trường.


Trước yêu cầu mới này, các trường đại học của Việt Nam đã đáp ứng ra sao? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời vì các trường đại học Việt Nam hầu như chưa có hệ thống thông tin quản lý để phục vụ các hoạt động bên trong nhà trường, và những con số được đưa ra trong các báo cáo tự đánh giá phục vụ kiểm định rất có thể là những con số đã được tô hồng thêm ít nhiều. Tuy nhiên, nếu một trường chọn cho mình sứ mạng là đại học nghiên cứu, hoặc muốn tham gia cuộc chơi xếp hạng, thì rõ ràng không thể không nắm được những số liệu về công bố khoa học của giảng viên của mình.

(còn tiếp)