Thursday, November 27, 2014

Đánh giá chương trình đào tạo theo AUN: Kinh nghiệm từ các chương trình đạt chuẩn (3 - tiếp theo và hết)

Dẫn:
Đây là phần cuối cùng của bản thảo đầu tiên của báo cáo cùng tên mà tôi đang thực hiện trong khuôn khổ đề tài "Áp dụng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo của AUN ở các trường đại học ngoài công lập tại TP HCM" do tôi làm chủ nhiệm đề tài. Các bạn có thể xem phần 1 và phần 2 trên blog này, tại đây: http://ncgdvn.blogspot.com/2014/11/anh-gia-chuong-trinh-ao-tao-theo-aun.html và tại đây http://ncgdvn.blogspot.com/2014/11/anh-gia-chuong-trinh-ao-tao-theo-aun_25.html.
----------------------
2.2. Đối sánh kết quả của các chương trình đạt chuẩn giai đoạn 2009-2013 của Việt Nam theo từng tiêu chuẩn
Phần phân tích ở trên đã cho chúng ta biết về mức độ chất lượng tổng quát của 12 chương trình đạt chuẩn AUN của Việt Nam và một số nhận định mang tính so sánh giữa các trường và các chương trình được đánh giá trong khoảng thời gian 5 năm (2009-2013). Dưới đây chúng ta sẽ đối sánh kết quả chung của giai đoạn 2009-2013 theo từng tiêu chuẩn giữa Việt Nam với AUN, và xem xét sự biến thiên kết quả của Việt Nam theo từng qua từng năm để rút ra nhận định về khả năng cải thiện ở mỗi tiêu chuẩn. 


Các số liệu được sử dụng trong hai Bảng 3 dưới đây được rút ra từ báo cáo của tác giả Johnson Ong Chee Bin, một CQO[1] của AUN, đã công bố tại Hội thảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học” tổ chức tại  ĐHQG-HCM trong tháng 11/2014 vừa qua.



Để hiểu được số liệu trong bảng này, cần phải hiểu sơ lược về bộ tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo của AUN, được mô tả sơ lược trong đoạn dưới đây. 


Bộ tiêu chuẩn chất lượng của AUN gồm 15 tiêu chuẩn và có thể phân thành 3 nhóm:



- Nhóm 1, gồm từ TC 1 đến TC 5, liên quan đến việc thiết kế và vận hành chương trình đào tạo, từ xây dựng kết quả đầu ra dự kiến (ở VN thường gọi là “chuẩn đầu ra”), đặc tả chương trình, cấu trúc và nội dung chương trình, chiến lược dạy và học, và đánh giá sinh viên; 

- Nhóm 2, gồm từ TC 6 đến TC 10, liên quan đến các điều kiện đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo, từ chất lượng giảng viên, sinh viên, đội ngũ hỗ trợ, hoạt động tư vấn và hỗ trợ sinh viên, và cơ sở vật chất và thiết bị; và 


- Nhóm 3, gồm 5 tiêu chuẩn cuối cùng, liên quan đến các hoạt động đảm bảo chất lượng và thông tin về hiệu quả của chương trình, từ đảm bảo chất lượng hoạt động dạy và học, phát triển đội ngũ, phản hồi của các bên liên quan, hiệu suất đầu ra (hiệu suất đào tạo), và sự hài lòng của các bên liên quan. 

Phần phân tích dưới đây sẽ so sánh theo từng nhóm tiêu chuẩn, và trong mỗi nhóm sẽ tiếp tục phân tích từng tiêu chuẩn khi cần.



Kết quả trong Bảng 3 cho phép ta đưa ra một số nhận định như sau:
 
- Nhìn chung, chất lượng các chương trình đạt chuẩn của Việt Nam không có sự chênh lệch nào so với kết quả bình quân của tất cả các trường thành viên của AUN trong cùng một thời gian (TBC tổng quát của cả hai là 4.6). Đây là một kết quả đáng khích lệ, khẳng định chất lượng đào tạo của VN không thua kém các trường trong khu vực ASEAN trong cùng thời gian đánh giá. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong số 30 trường thành viên của AUN thì chỉ có khoảng 8 trường tham gia đánh giá (tính cả 2 ĐHQG của VN), trong đó không có trường nào thực sự có tầm cỡ của khu vực (không có trường nào của Singapore và Thái Lan tham gia đánh giá, còn Malaysia cũng chỉ tham gia một lần đầu tiên rồi sau đó không tham gia nữa). Nói cách khác, kết quả đánh giá trong thời gian qua cho thấy chất lượng đào tạo của những trường danh tiếng nhất của VN là tương đương với một số trường khá của hai quốc gia có trình độ phát triển ngang với Việt Nam như Philippines và Indonesia.


- Trong 3 nhóm tiêu chuẩn của AUN, VN có kết quả tốt hơn ở nhóm 3, nhưng kém hơn ở cả hai nhóm tiêu chuẩn còn lại. Điều này VN cần tiếp tục chú trọng cải thiện (1) năng lực thiết kế và vận hành các chương trình đào tạo; và (2) các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo của VN.

- Khi xét từng tiêu chuẩn, có thể thấy các chương trình của VN được đánh giá tốt hơn trung bình chung của AUN ở các khía cạnh sau: Đánh giá sinh viên (TC 5, cao hơn TBC của AUN là 0.1); Chất lượng đầu vào của sinh viên (TC 8, cao hơn TBC của AUN là 0.1);  Hoạt động phát triển đội ngũ (TC 12, cao hơn TBC của AUN là 0.1); Phản hồi của các bên liên quan (TC 13, cao hơn TBC của AUN là 0.2); và cuối cùng là Sự hài lòng của các bên liên quan (TC 15, cao hơn TBC của AUN là 0.3). Trừ tiêu chuẩn 5 (đánh giá sinh viên), 4 tiêu chuẩn còn lại đều có thể lý giải được bằng việc cả 3 trường thành viên AUN của VN đều là những trường tốt nhất của cả nước hoặc khu vực (trên thực tế, ĐH Cần Thơ chỉ có 1/18 chương trình được đánh giá, còn lại đều là của hai đại học quốc gia); tính cạnh tranh ở đầu vào rất cao, chất lượng sinh viên được tuyển vào rất tốt (tiêu chuẩn 8), và điều đó cũng dễ làm cho các bên có liên quan hài lòng về chương trình đào tạo.



Bảng 3: Kết quả tổng quát toàn giai đoạn 2009-2013 của AUN và Việt Nam theo từng tiêu chuẩn
Ghi chú: Màu xanh biểu thị tiêu chuẩn mà Việt Nam có kết quả cao hơn AUN; màu hồng biểu thị tiêu chuẩn và VN có kết quả thấp hơn AUN; và màu trắng (không có màu) là tiêu chuẩn không có sự chênh lệch giữa VN và AUN.


Kết luận


Việc xem xét kết quả đánh giá 18 chương trình đạt chuẩn của VN và đối sánh chúng với trung bình chung của AUN giúp chúng ta khẳng định rằng Bộ tiêu chuẩn chất lượng chương trình đào tạo của AUN là hoàn toàn phù hợp và khả thi đối với giáo dục đại học của Việt Nam. Nó cũng cho thấy việc tham gia đánh giá theo tiêu chuẩn AUN đã thực sự có tác dụng thúc đẩy chất lượng đào tạo của các trường thành viên, khi kết quả đánh giá của các trường được liên tục nâng lên. Ngoài ra, thông qua việc đối sánh kết quả của VN với các trường thành viên AUN, ta cũng có thể yên tâm rằng giáo dục đại học của Việt Nam hoàn toàn có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực, hoặc ít nhất là các nước có trình độ phát triển ngang với VN như Indonesia và Philippines.



Tuy nhiên, bên cạnh những thông tin mang tính khích lệ như trên, kết quả đánh giá các chương trình đạt chuẩn của VN cũng chỉ ra nhiều điều mà chúng ta cần cải thiện để có thể có được vị thế tốt hơn trong một thế giới hội nhập và đầy cạnh tranh như hiện nay. Trong thời gian tới, các nhà lãnh đạo giáo dục các cấp cần chú trọng nâng cao năng lực thiết kế và vận hành chương trình đào tạo của các giảng viên, và tiếp tục đầu tư để nâng cao các điều kiện đảm chất lượng chương trình đào tạo của Việt Nam. Có như vậy thì giáo dục đại học Việt Nam mới có thể nâng cao vị thế của mình trong khu vực, và hoàn thành được nhiệm vụ đào tạo nhân lực trình độ cao trước viễn cảnh của một Cộng đồng Kinh tế ASEAN sắp bắt đầu vào cuối năm 2015 sắp đến.

-------------


Tài liệu tham khảo
1.      AUN (2013).  Guidelines for AUN quality assessment and assessors & Framework of AUN-QA strategic plan 2012-2015. Bangkok: Chulalongkorn University.
2.      Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh (2014). Kỷ yếu Hội thảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học”. Tài liệu lưu hành nội bộ.
3.      Ong Chee Bin, J. (2014). “Analysis of AUN-QA assessments at programme level in Vietnam and recommendations for improvements”. Trong Kỷ yếu Hội thảo “Đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục đại học”, tổ chức tại ĐHQG-HCM ngày 13/11/2014.
 

Wednesday, November 26, 2014

Tư liệu: Vụ tranh cãi về SGK tiếng Anh của VN và Nepal (1)

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/208216/co-gai-viet-o-nepal-viet-thu-gui-bo-truong-gd.html

Mới đây, Võ Thị Mỹ Linh (nickname Va Li) cô gái sinh 1989 đã có chia sẻ về việc học tiếng Anh của học sinh Nepal. 

Nội dung đoạn viết có tên: “Thư gửi bác Bộ trưởng Bộ GD-ĐT” của Linh viết hiện đã có hơn 7500 lượt thích và hơn 3300 lượt chia sẻ cùng hơn 730 bình luận. Đa phần các ý kiến đều ủng hộ và tâm đắc với câu chuyện mà cô bạn sinh năm 1989 chia sẻ.
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng câu chuyện, ví dụ của Mỹ Linh không hoàn toàn đúng, chỉ là phương pháp áp dụng của VN còn nhiều khuyết điểm và chưa triệt để, và tiến độ chậm hơn.

dạy tiếng Anh, SGK, thư, Bộ trưởng, Bộ GD-ĐT, 8x
Mỹ Linh và các em nhỏ ở Nepal (Ảnh :NVCC).
Mỹ Linh hiện vẫn ở Nepal, và dự tính ngày 1/12 sẽ trở về Việt Nam. Cô bạn này khá nổi tiếng, mới đây nhất là việc cô may mắn thoát chết trong vụ sạt lở tuyết tồi tệ nhất trong 10 năm qua tại dãy Himalaya (Nepal) làm khoảng 40 người chết.
Được sự đồng ý của Mỹ Linh, VietNamNet trích đăng nội dung bức thư:
Gửi bác Bộ trưởng Bộ GD-ĐT,
Cháu tên Linh. Dĩ nhiên bác không cần nhớ tên cháu làm gì.... Chỉ cần chúng ta có một câu chuyện chung để nói. Thế là đủ rồi bác nhỉ.

dạy tiếng Anh, SGK, thư, Bộ trưởng, Bộ GD-ĐT, 8x
Sách dạy tiếng Anh của học sinh VNđược Linh chia sẻ trên Facebook cá nhân

Chuyện kể là, hôm qua, cháu ngồi ở thư viện trường Shree Sarbodaya quận Syanja - Nepal. Cháu dành cả một ngày đọc sách giáo khoa English để hiểu cách dạy English của người Nepal. Dĩ nhiên, người Nepal dạy English không tốt đâu. Vì họ không có tiền để mua tivi, băng đĩa, không có phương tiện cho học sinh nghe người bản xứ nói chuyện, thậm chí đến cả cuốn từ điển giấy họ còn túng thiếu bác ạ (túng thiếu đến cỡ nào cháu sẽ có 1 bài viết để kể sau).

Nhưng so với Việt Nam thì English của họ giỏi hơn nhiều. Dĩ nhiên, Nepal đúng là một nước nghèo, nghèo xếp hạng top nghèo nhất thế giới ấy. Nhưng cần so sánh với trình độ GD của 1 nước nghèo để thấy rằng trình độ của nước mình ở đâu. Và giờ, có mấy điều cháu muốn trao đổi với bác như sau:
1. Cháu đọc SGK English của học sinh Nepal từ lớp 1 đến lớp 5.
Bài học đầu tiên của học sinh lớp 1 Nepal là chuyện chào hỏi. Bài học đầu tiên của học sinh lớp 2 nói chuyện đi đến trường. Bài học đầu tiên của học sinh lớp 3 kể lại nhật ký một ngày của cô bé Lilu. Bài học đầu tiên của học sinh lớp 4 dạy bạn phải biết Be careful với câu chuyện cậu bé Raj vừa đi vừa chơi game mà không để ý thấy cây cầu bị gãy.
dạy tiếng Anh, SGK, thư, Bộ trưởng, Bộ GD-ĐT, 8x
dạy tiếng Anh, SGK, thư, Bộ trưởng, Bộ GD-ĐT, 8x
dạy tiếng Anh, SGK, thư, Bộ trưởng, Bộ GD-ĐT, 8x
dạy tiếng Anh, SGK, thư, Bộ trưởng, Bộ GD-ĐT, 8x
Sách dạy tiếng Anh của học sinh tiểu học Nepal (Ảnh: Facebook Mỹ Linh).
Bài học đầu tiên của học sinh lớp 5 hỏi, "What do you want?" và kể chuyện người cha già có đứa con bị ở tù. Ông ra vườn trồng khoai tây và ước giá mà có đứa con trai ở đây để đào lỗ cho ông trồng. Thế là ông viết thư cho con trai. Mỗi bài học thể hiện độ khó khác nhau bác ạ. Thậm chí ngoài English, họ còn có 2 môn học khác là Văn hoá xã hội và Khoa học - Sức khoẻ cũng hoàn toàn được viết bằng English và nằm trong môn học chính của học sinh.
Cháu lập tức nhắn về Việt Nam, nhờ đứa bạn thân chạy ra hiệu sách, chụp cho cháu xem SGK English từ 1-5 dạy cái gì. Bác biết gì không?
Bài học đầu tiên của SGK 1 dạy Hello. Bài học của sách SGK 2 là dạy câu "where are you from". Bài học của SGK 3 dạy lại Hello. Bài học đầu tiên của SGK 4 dạy câu "How're you". Bài học đầu tiên của SGK 5 dạy lại câu "where're you from".
Cháu hoảng hồn bác ạ. Cháu không biết vì bác nghi ngờ trình độ của học sinh VN quá kém nên có mỗi 3 câu "hello, how're you, where're you from" mà phải học đi học lại suốt 5 năm?
Hay tại chúng ta quan niệm, 5 năm, học được 3 câu đó là đã quá nhiều rồi?
Bác biết không, học sinh ở độ tuổi càng nhỏ thì khả năng tiếp cận ngôn ngữ càng tốt. Vì lúc đó bộ nhớ của chúng chưa sử dụng để ghi nhớ những điều phức tạp, những chuyện kiếm tiền, yêu đương. Nên cháu buồn khi thấy chúng ta bắt các em học quá nhiều thứ về toán lý hoá nhưng lại lo sợ trí nhớ của các em không đủ để học English. Buồn cười nhỉ.
2. Để dạy học sinh Nepal hiểu English, nhớ English, người Nepal bắt đầu bài học bằng những câu chuyện. Chuyện kể cô bé Deepa làm việc này việc kia. Chuyện kể gia đình cu cậu Ramesh thế này thế nọ.
Cô giáo sau khi dạy học sinh về câu chuyện sẽ hỏi lại học sinh câu chuyện đó kể gì, cô bé Deepa làm gì, cậu Ramesh bị gì. Học sinh trả lời và ghi nhớ.
Để dạy học sinh Việt Nam hiểu English, các nhà soạn sách VN soạn ra những đoạn hội thoại chẳng có ý nghĩa gì và bắt học sinh học lại đoạn hội thoại đó để ứng dụng như một con vẹt. Theo bác, việc ghi nhớ nội dung câu chuyện dễ hơn hay khó hơn ghi nhớ một đoạn hội thoại dễ hơn?
3. Người Nepal soạn sách giáo khoa để dạy người Nepal. Thế nên những câu chuyện họ viết, những đề tài họ dạy liên quan đến đời sống, văn hoá hàng ngày của họ.
Họ nói về đỉnh Everest, nói về thủ đô Kathmandu, nói về những cậu bé, cô bé với những cái tên rất Nepal như Gauri, Sunda... Đó là cách họ khiến học sinh hứng thú với môn English vì nó gần gũi, dễ hiểu. Đó cũng là cách họ từ hào về đất nước họ.
Chúng ta - trong đó có bác - luôn nói tự hào về Việt Nam. Nhưng có bao giờ bác nhìn SGK English của người Việt để xem sách viết gì không?
Sách viết câu chuyện của Tom, của Peter, của Marry...những cái tên không phải của người Việt. Sách kể chuyện My hometown nhưng cái Hometown ấy là London.
Sách kể về món bánh nhưng không phải là bánh chưng, bánh giày, bánh mì thịt nướng mà là bánh Pizza.
Thế nên cháu muốn hỏi là, có phải vì chúng ta không đủ kinh phí để soạn một cuốn sách dạy English những nội dung xoay quanh đời sống Việt không? Hay là những nhà soạn sách họ không nghĩ ra cái gì hay ho hơn nên phải dùng những câu chuyện của nước khác.
Để đến khi người nước ngoài họ hỏi cái món bánh nổi tiếng nhất ở nước mày là món gì thì học sinh bảo là pizza vì chúng không biết từ bánh mì thịt nướng trong English nói thế nào.
Nếu mà vì chúng ta nghèo quá, không có kinh phí, chỉ cần bác nói thôi, cháu sẽ huy động được một đội ngũ soạn được cuốn sách dạy English cho người Việt mà không cần lấy một đồng nào.
Còn nếu vì những người soạn sách họ không nghĩ ra cái gì hay ho hơn để viết, thì cũng chỉ cần bác nói thôi, cháu sẽ chỉ họ cách viết. Thí dụ như thay vì viết bài giảng "quê mày ở đâu hả Tom? Quê tao ở Mỹ, Peter ạ" thì cháu sẽ chỉ họ chuyển thành thế này "Quê mày ở đâu hả Tí? Quê tao ở Mỹ Tho Tèo ạ, là cái xứ ngày xưa bọn Mỹ đánh hoài mà không chiếm được ấy."
Cháu tin bọn học sinh sẽ hứng thú với câu chuyện của thằng Tí, thằng Tèo hơn câu chuyện của Tom và Peter ạ. Vì chúng cháu đã từng là những thằng Tí, thằng Tèo như thế.
4. Đã rất lâu rồi, chúng ta, hoặc vì lười biếng, hoặc vì bảo thủ, hoặc vì không muốn tiếp cận cái mới nên luôn tự ru ngủ nhau rằng, "là người Việt, chúng ta phải tự hào về văn hoá Việt, nên chúng ta cần học tiếng Việt chứ không phải English". Đó chắc là lý do mà kỳ thi tốt nghiệp THPT năm vừa rồi English trở thành môn tự chọn và không có trong môn thi.
Nhưng cháu thì muốn đổi lại một chút thế này, "là người Việt, chúng ta cần tự hào về văn hoá Việt, nên chúng ta cần học English để nói cho thế giới biết về văn hoá của chúng ta đẹp như thế nào". Người Nepal đưa English thành ngôn ngữ chính, vì họ muốn kể câu chuyện văn hoá của đất nước họ cho thế giới biết. Nên cũng đã đến lúc chúng ta cần học theo như họ rồi bác ạ.
Nó giống như câu chuyện anh nông dân xây được cái nhà đẹp ấy. Nếu anh tự hào về ngôi nhà anh đẹp, thì anh phải tìm cách đi qua làng bên, nói cho người làng bên biết cái nhà anh đẹp thế nào để họ còn biết mà đến thăm. Nhưng chúng ta đã làm gì? 
Chúng ta đã bảo anh nông dân ấy nằm ở nhà, chổng mặt lên ngắm trần nhà và tự khen nhà mình đẹp thôi là đủ. Trong khi thế giới ngoài kia, có biết bao ngôi nhà đẹp hơn đang được xây nên mỗi ngày, bác ạ...
Cháu thì ở xa, bác lại bận trăm công nghìn việc chắc khó nghe thấy những lời cháu nói. Nhưng cháu tin thông điệp cháu gửi rồi cũng tới bác.
  •  Đăng Duy