Thursday, October 10, 2013

Tư liệu: Thị dân và văn hóa thị dân

Tư liệu dưới đây tôi đã dịch và gửi cho Tạp chí Nghiên cứu phát triển của TP HCM, giờ được báo là  đăng lên số gần đây nhất, không rõ có được biên tập lại gì không. Nay tôi đăng tư liệu này lên đây để chia sẻ, và cũng là để lưu cho mình, vì lưu trên blog là dễ tìm nhất đối với tôi. Enjoy các bạn nhé.
---------------
Thị dân và văn hóa thị dân
Vũ Thị Phương Anh dịch và giới thiệu
Lời giới thiệu

Thị dân – tiếng Anh là urbanite hoặc city-dweller - là gì? Câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng hóa ra lại khá phức tạp. “Thị dân” tất nhiên không phải là “người nhà quê”, mà phải là một người sinh sống ở các vùng đô thị (urban). Nhưng như thế nào là sống ở thành thị, ví dụ, những người công nhân quê ở tỉnh lẻ nhưng đến tham gia vào lực lượng lao động ở các thành phố lớn như TP HCM hoặc Hà Nội thì có phải là thị dân không? Mà một nơi như thế nào mới được xem là “đô thị” nhỉ? Chẳng hạn, ở Việt Nam thì Hà Nội và TP HCM chắc hẳn phải là “đô thị” rồi, nhưng còn những thành phố khác thì sao? Liệu có phải chỉ những thành phố cấp trung ương mới được xem là “đô thị” chăng, hay những thành phố lớn khác cũng được?


Thực ra, câu hỏi tưởng chừng đơn giản này lại có một định nghĩa khá phức tạp. Không thể định nghĩa “thị dân” bằng cách xác định nơi một người sinh sống, mà phải định nghĩa nó dưới cái nhìn văn hóa.  Dưới đây xin giới thiệu hai định nghĩa quan trọng liên quan đến khái niệm thị dân và đô thị. Trước hết, xin giới thiệu định nghĩa  về “thị dân” trên từ điển mạng có tên là Từ điển Đô thị (urbandictionary.com) , cũng là nghĩa phổ biến trên các phương tiện truyền thông của phương Tây hiện nay. Phần tiếp theo là định nghĩa và phân loại có tính hàn lâm về đô thị và các nền văn hóa đô thị theo Từ điển bách khoa Britanica, phiên bản trực tuyến.
 ---
[Thị dân] là người sinh sống ở một trong những thành phố lớn trên thế giới, có độ tuổi từ 17 đến 44. Là người tiêu dùng khá giả, có quan điểm sống lạc quan và rất khác những người sống ở "thị trấn nhỏ" hoặc khu vực nông thôn.

Văn hóa thị dân vừa là một tiểu văn hóa (subculture), vừa là một lối sống hiện đại. Thị dân có 6 đặc điểm chính: Thiếu thời gian, tự hào về văn hóa đô thị, có hiểu biết về truyền thông (media-literate), có ý thức về thương hiệu hàng hóa, tiêu dùng theo thị hiếu (trend-sensitive) và có ý thức về văn hóa.

Tờ báo Metro của Anh đã liệt kê 10 "Kỳ vọng lớn" (Great expectations) tác động đến đời sống thị dân:

01. Kỳ vọng có một cuộc sống đô thị có ý nghĩa và đầy kinh nghiệm phong phú.
02. Kỳ vọng thành công ở nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống (chứ không chỉ là nghề nghiệp).
03. Kỳ vọng đạt được thỏa mãn đầy đủ từ công việc của mình (không chỉ về khía cạnh tiền bạc).
04. Kỳ vọng có một mạng lưới bạn bè rộng lớn.
05. Kỳ vọng vẫn có tình yêu đích thực trong thế giới hiện đại.
06. Biết rằng mình sẽ phải sắp xếp cuộc sống để có được thời gian và tận hưởng thời gian.
07. Biết là có thể phải vay nợ (tín dụng) để có thể tiêu xài và tiêu xài ngay bây giờ.
08. Kỳ vọng có một chính phủ tiến bộ và đem lại được những gì đã hứa.
09. Kỳ vọng sẽ được sống trong một khu vực "làng đô thị" trong thành phố của mình.
10. Kỳ vọng sẽ sống một cách trách nhiệm như một người tiêu dùng đô thị.

Thị dân là một người dễ mến: Anh ta rất thích sống ở thành phố, ăn mặc đẹp, theo dõi những hoạt động văn hóa đương đại, thường xuyên tổ chức những sự kiện và đi đến những nơi thú vị, luôn có ý thức xã hội mặc dù luôn than phiền là không có thời gian. Quả là một thị dân đích thực!

 -----------------
Định nghĩa đô thị và các loại hình văn hóa đô thị

Nghiên cứu văn hóa đô thị tất nhiên tập trung vào việc đưa ra định nghĩa về các định chế, về đô thị, về lối sống, hoặc các dạng thức văn hóa đã hình thành và phát triển trong các đô thị. Quá trình nghiên cứu đô thị đã liên tục thúc đẩy việc hình thành một quan niệm về đô thị và các kiểu văn hóa đô thị - một quan niệm thoát khỏi tính vị chủng (ethnocentrism), có giá trị lịch sử và xuyên văn hóa.

  

Đến tận giữa thế kỷ 20 quan niệm về đô thị vẫn phát triển theo quan điểm là chỉ có một kiểu đô thị đích thực hoặc tiêu biểu mà thôi. Henri Pirenne khi nghiên cứu về đô thị Châu Âu thời Trung Cổ, đã đưa ra lập luận trong tác phẩm Các thành phố Trung cổ (1925) rằng có hai đặc điểm căn bản cho việc phát triển văn hóa đô thị: một là, cần có một tầng lớp trung lưu (tiểu tư sản), những người này dựa vào buôn bán mà có được sự giàu có và độc lập về chính trị, không phụ thuộc vào các lãnh chúa phong kiến vốn không phải là dân đô thị; và hai là, cần có một tổ chức cộng đồng của công dân đô thị nhằm tạo ra sự gắn kết cần thiết để giải phóng độ thị ra khỏi sự kiểm soát của lãnh chúa phong kiến địa phương và quyền lực của giới tăng lữ. Mặc dù điều này vẫn còn được xem là định nghĩa tổng quát về đô thị (từ đó có quan niệm thông thường rằng đã là đô thị thì phải có chức năng thương mại), công thức của Pirenne vẫn chưa đầy đủ vì công thức này chỉ xem thành phố Trung cổ Châu Âu và những cư dân trung lưu của nó mới được xem là tiêu biểu cho một đô thị đích thực.

  

Max Weber trong tác phẩm Đô thị (1921) đã cung cấp một định nghĩa khác về đô thị. Tương tự như Pirenne, ông đối chiếu đô thị phương Tây và đô thị phương Đông. Theo Weber, một cộng đồng đô thị có 5 đặc điểm, có nghĩa là nó phải có: (1)  pháo đài; (2) chợ; (3) bộ luật và hệ thống tòa án của riêng mình; (4) tổ chức của công dân đô thị nhằm tạo cho người dân cảm giác thuộc về một tổ chức; (5) sự tự chủ về chính trị để lựa chọn thống đốc của thành phố cho các thị dân của nó. Weber tin rằng các đô thị phương Đông không bao giờ đạt được đầy đủ tất cả những đặc điểm này vì căn tính về gia đình, dòng tộc, hoặc sắc tộc đã cản trở những người dân đô thị tạo thành một cộng đồng thị dân đoàn kết để chống lại sự kiểm soát của nhà nước. Thậm chí đối với các đô thị phương Tây thì định nghĩa của Weber cũng loại trừ đa số các thành phố trước thời hiện đại, bởi vì sự độc lập của đô thị mà ông đòi hỏi chỉ mới tồn tại ở Bắc Âu và Ý, và ngay ở những nơi này thì cũng chỉ được một giai đoạn ngắn vào cuối thời Trung cổ. Kết quả là một quan niệm quá hạn chế về nền văn hóa đô thị, và vì thế, rất khó tạo ra một sự hiểu biết phù hợp cho tất cả mọi nền văn hóa.
  
Vào thập niên 1940, Robert Redfield, dưới ảnh hưởng mạnh mẽ từ Louis Wirth và các thành viên khác của trường phái nghiên cứu sinh thái học của trường Đại học Chicago, đã đưa ra quan niệm về đô thị với những đặc điểm là phi cá nhân, không đồng nhất, thế tục, và pha trộn. Trong mô hình đô thị dân gian (folk-urban model), như trong bài viết "Xã hội dân gian” (The Folk Society), Redfield đã so sánh hình ảnh đời sống đô thị với hình ảnh cộng đồng dân gian, mà ông mô tả là nhỏ bé, thiêng liêng, có đặc điểm cá nhân cao độ và có tính đồng nhất. Ông cho rằng, khi các cá nhân di chuyển từ một cộng đồng dân gian [tức nông thôn – chú thích của người dịch] đến thành phố, hay khi toàn bộ một xã hội chuyển sang một nền văn hóa độ thị hóa, thì các truyền thống văn hóa sẽ bị phá vỡ. Các cá nhân và xã hội đang được đô thị hóa sẽ dẫn đến sự phá vỡ về mặt văn hoá và sẽ kéo theo các bệnh lý xã hội như ly hôn, nghiện rượu, tội phạm, và sự cô đơn.
  
Quan niệm về đô thị của Redfield xuất phát từ các nghiên cứu của các nhà xã hội học được tiến hành tại các thành phố công nghiệp của Mỹ, chủ yếu là Chicago. Với cái nhìn vị chủng, ông cho rằng phát hiện của các nhà xã hội học Mỹ có thể khái quát hóa cho tất cả mọi kiểu văn hóa đô thị. Những nghiên cứu sau đó cho thấy quan niệm này có nhiều điểm sai ngay cả đối với các thành phố công nghiệp của Mỹ. Tuy nhiên, mặc dù quan niệm này có tính thiên vị chủng tộc và không đầy đủ ngay cả khi áp dụng cho các thành phố của Mỹ, nó vẫn có ảnh hưởng rất lớn trên cách suy nghĩ phổ biến; cách nghĩ cho rằng mọi thành phố, ở mọi nền văn hóa và trong mọi thời đại, đều là những trung tâm du mục, của những thử nghiệm xã hội, của sự bất đồng quan điểm, tình trạng bừa bãi, tội phạm, và những tình trạng tương tự - dù xấu dù tốt – tạo ra bởi sự phá vỡ trật tự xã hội.
  
Gideon Sjoberg (trong tác phẩm Thành phố tiền công nghiệp, quá khứ và hiện tại, 1960), đã tiến hơn một bước trong việc tạo ra sự hiểu biết xuyên văn hóa về đô thị, thách thức quan niệm văn hóa đô thị hẹp hòi về mặt chủng tộc và lịch sử trước đó. Ông phân chia các trung tâm đô thị trên thế giới ra thành hai loại, đô thị tiền công nghiệp và đô thị công nghiệp, mà ông phân biệt dựa trên trình độ phát triển công nghệ của xã hội. Theo Sjoberb thì các thành phố tiền công nghiệp hiện diện trong các xã hội chưa có trình độ công nghệ tinh vi, nơi sản xuất kinh tế còn dựa trên sức người và động vật. Thành phố công nghiệp chiếm ưu thế trong các quốc gia hiện đại hóa của Tây Âu và Mỹ, nơi các nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch và năng lượng nguyên tử đã làm tăng đột biết sản lượng kinh tế. Đối với Sjoberg, văn hóa đô thị tiền công nghiệp rất khác với văn hóa đô thị công nghiệp: cư dân của các đô thị tiền công nghiệp gắn kết với nhau bởi những mối dây ràng buộc mang tính cá nhân về chủng tộc và sắc tộc; loại đô thị này duy trì kết nối dòng tộc mạnh mẽ và hầu như không thấy sự phá vỡ trật tự xã hội, nhà thờ hoặc các định chế tôn giáo khác vẫn giữ địa vị thống trị tương tự như niềm tin văn hóa ở khu vực đô thị; và chức năng chủ yếu của đô thị là vai trò hành chính của đế chế hơn là vai trò sản xuất công nghiệp.

 
Mặc dù quan điểm của Sjoberg về loại hình đô thị tiền công nghiệp đã là một sự cải tiến lớn so với những định nghĩa trước đó, nó cũng cũng phạm một sai lầm là khái quát hóa quá mức. Sjoberg đã nhập chung các nền văn hóa đô thị vốn rất khác nhau thành một loại duy nhất là đô thị tiền công nghiệp, ví dụ, các đô thị của các đế chế cổ xưa lại được nhập chung với những đô thị hiện nay của thế giới thứ ba. Những nền văn hóa đô thị trong quá khứ vốn không phù hợp với những quan niệm của Sjoberg, ví dụ như các thành phố tự trị của đầu Châu Âu thời đầu hiện đại, đã bị bỏ qua như những biến thể tạm thời và bất thường của loại hình tiền công nghiệp hơn là những biến thể quan trọng của văn hóa đô thị.

Trong tác phẩm "Vai trò văn hóa của đô thị", Robert Redfield và Milton Singer đã cố gắng cải thiện tất cả các quan niệm về đô thị đã có từ trước kể cả quan niệm mà chính ông đã đưa ra về mô hình đô thị dân gian, bằng cách nhấn mạnh các vai trò văn hóa đa dạng của các đô thị trong xã hội. Redfield và Singer xác định hai vai trò văn hóa của đô thị mà mọi thành phố đều thực hiện, mặc dù chúng có các cường độ và mức độ phức tạp khác nhau. Các đô thị mà vai trò văn hóa của nó chủ yếu là tạo dựng và hệ thống hóa các truyền thống của xã hội thì thực hiện chức năng “trực sinh” (đơn sinh). Trong những nền văn hóa đô thị như vậy, các văn nhân đưa ra lập luận về một "Truyền thống lớn” về văn hóa cho toàn xã hội. Các thông điệp văn hóa phát ra từ các thành phố như Delhi, Paris, Washington D.C, và các thủ đô khác của đế chế cổ điển hoặc các quốc gia hiện đại, là nhằm phát triển và bảo vệ truyền thống văn hóa. Ngược lại, các thành phố mà vai trò văn hóa chính yếu của nó là “dị sinh” (heterogenetic) theo như định nghĩa của Redfield và Singer, là những trung tâm về kỹ thuật và kinh tế, và chúng vận hành để sáng tạo và giới thiệu những ý tưởng mới, vũ trụ luận (cosmologies) và các thực tiễn xã hội mới. Những thành phố như London, Marseille, hay New York, thì giới trí thức thách thức các phương pháp cũ, chất vấn những truyền thống đã có sẵn, và giúp biến các thành phố đó thành các trung tâm văn hóa sáng tạo.
  
Tiếp tục mối quan tâm của Redfield và Singer về vai trò văn hóa của đô thị trong xã hội, Paul Wheatley trong tác phẩm Trung Hoa tứ đại cổ đô[1] (The Pivot of the Four Quarters, 1971) đã cho rằng hình thức cổ xưa nhất của văn hóa đô thị là trung tâm lễ nghi tôn giáo, có chức năng tổ chức và thống trị khu vực nông thôn quanh nó thông qua việc thực hành các nghi lễ và quyền lực. Theo Wheatley, chỉ mãi sau này thì quyền lực về kinh tế và chính trị mới được thêm vào. Theo truyền thống của Redfield và Singer, Wheatley đã xác lập rằng mọi quan niệm về văn hóa đô thị đều phải bắt nguồn từ vai trò văn hóa của đô thị trong xã hội của chúng; các nghiên cứu phải đề cập cụ thể đến vai trò của văn hóa đô thị trong việc tạo ra niềm tin và tổ chức hành đạo trong các nền văn hóa rộng lớn vượt ra ngoài khuôn viên đô thị, và từ đó đề cập đến ảnh hưởng của vai trò này đến nững lối sống và các nhóm xã hội (các hình thức văn hóa) nhất định trong đô thị.
  
Bắt đầu vào thập niên 1970, David Harvey (trong tác phẩm Công bằng xã hội và đô thị, 1973), Manuel Castells (trong tác phẩm Câu hỏi đô thị, 1977), và các học giả chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác tạo ra một thay đổi lớn trong quan niệm về vai trò văn hóa đô thị. Mặc dù họ chủ yếu nghiên cứu về các đô thị trong các nền văn hóa tư bản phát triển, nhưng cách tiếp cận của họ cũng có khả năng áp dụng tổng quát hơn. Thay vì đứng từ góc nhìn đô thị để nhìn rộng ra văn hóa đô thị nói chung thì cách tiếp cận mới này xem đô thị như một trạm dừng để các chức năng văn hóa xuất phát từ các nền văn hóa rộng hơn hoặc thậm chí từ  hệ thống thế giới đổ đến. Chẳng hạn, Harvey đã kết nối những thay đổi lớn trong lối sống đô thị Mỹ với văn hóa đô thị của chủ nghĩa tư bản phát triển: đối với ông, sự phát triển của vùng ngoại ô là do chủ nghĩa tư bản đã cổ động cho những cách thức tiêu thụ mới nhằm mục tiêu lợi nhuận. Castells thì quan niệm đô thị như một đấu trường cho các xung đột xã hội xuất phát từ sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản.

Cách tiếp cận Mác-xít này không mâu thuẫn với quan điểm nhấn mạnh đô thị như nguồn gốc của các vai trò văn hóa mà bổ sung cho nó. Nghiên cứu về vai trò văn hóa của đô thị cần phải bao gồm không chỉ các niềm tin cũng như các thực hành văn hóa xuất phát từ đô thị mà còn cả các hình thức văn hóa đã phát triển trong đô thị do tác động của nền văn hóa đô thị. Bằng cách này, việc nghiên cứu có thể tạo ra một quan niệm xuyên văn hóa và có giá trị về mặt lịch sử về đô thị, về các hình thức văn hóa của chúng và các nền văn hóa đô thị mà trong đó chúng được thiết lập.


[1] Bốn kinh đô cổ của Trung Hoa là: Tràng An, Lạc Dương, Yên Kinh và Nam Kinh.


2 comments: