Thursday, September 26, 2013

Ngành nhân văn dưới góc nhìn của nghệ thuật biểu diễn (Martin Brunz)

Bài đăng dưới đây là bản dịch của bài viết Humanaties as spectacle được đăng trên tờ Inside Higher Education vào cuối tháng 7 tại địa chỉ: http://www.insidehighered.com/views/2013/07/30/essay-building-audience-humanities. Tác giả của nó đưa ra một giải pháp vô cùng lý thú cho sự xuống dốc của khối ngành nhân văn trong các trường đại học, đó là: hãy đối xử với ngành nhân văn như một ngành nghệ thuật biểu diễn. Điều này thực đúng, như ta có thể thấy ngay ở VN: nếu như hiện nay ngành nhân văn không mấy ai vào học, thì những buổi Cafe Thứ bảy, hoặc những diễn thuyết của các nhà văn, nhà sử học, triết học vv vẫn luôn đông người, và đặc biệt là rất nhiều người trẻ. Ví dụ như buổi trao đổi về cuốn Ngàn năm áo mũ của Trần Quang Đức gần đây. 

Bài viết thú vị đến nỗi tôi thấy cần phải dịch nó ra và phổ biến cho nhiều người đọc hơn nữa. Tôi đã dịch, và đã gửi cho Tạp chí Tia Sáng, tờ tạp chí mà tôi cộng tác quen thuộc lâu nay. Nay bài đã đăng lên (tại đây: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&CategoryID=41&News=6749), nên tôi đưa về đây để lưu và chia sẻ với mọi người.

Enjoy các bạn nhé!
--------------


Lời giới thiệu:

“Sự khủng hoảng của các ngành nhân văn” là một vấn đề đã làm đau đầu các nhà chính sách giáo dục của Hoa Kỳ trong nhiều năm qua. Gần đây nhất, Quốc hội Hoa Kỳ đã đặt hàng cho Viện Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ thực hiện một nghiên cứu để tìm ra những giải pháp cho tình trạng nói trên. Kết quả của nghiên cứu trên được nêu trong một báo cáo dài 88 trang, mới được công bố trong tháng 7 vừa qua. Nhưng theo nhận định của giới chuyên môn thì báo cáo nói trên dù được thực hiện bởi những tên tuổi trong ngành, dường như vẫn quá chung chung và không đưa ra được các giải pháp khả thi để giải quyết sự khủng hoảng của khối ngành nhân văn. Mọi việc dường như đang trong vào tình trạng bế tắc và không có lối thoát.

Tuy nhiên, Matti Bunz, tác giả của bài viết được đăng trên trang Inside Higher Education vào cuối tháng 7 vừa qua, tình trạng của các ngành nhân văn không bi đát đến thế, và giải pháp cho tình trạng hiện nay có thể đến bằng một con đường rất bất ngờ. Theo tác giả, có một cách làm rất đơn giản mà chắc chắn sẽ thành công, vì chính ông đã có kinh nghiệm áp dụng đến hơn hai thập niên. Hãy nghe tác giả kết luận bài viết của mình: “Hãy bắt chước chúng tôi!”

Xin trân trọng giới thiệu bài viết của Matti Bunz đến tất cả bạn đọc.



Ngành nhân văn dưới góc nhìn của nghệ thuật biểu diễn

Matti Bunzl

Phương Anh dịch và giới thiệu

Một vài tuần đã trôi qua kể từ khi bản báo cáo do Quốc hội Hoa Kỳ đặt viết về tình trạng của các ngành khoa học xã hội và nhân văn có tựa đề là "The Heart of the Matter”[1] (“Cốt lõi của vấn đề”) được Viện Nghệ thuật và Khoa học Hoa Kỳ công bố. Mặc dù nội dung của bản báo cáo này không có gì đáng để chỉ trích – nó chứa đầy những phát biểu về tầm quan trọng của giáo dục và về tinh thần công dân – nhưng nỗi đau của các ngành nhân văn vẫn còn chưa dứt.

Chỉ riêng trong tờ New York Times cũng đã có thể tìm được những lời phản đối của ba nhà bình luận chính trị tầm cỡ. David Brooks, một thành viên của nhóm nghiên cứu, than vãn về tình trạng “tự tử tập thể” của các giáo sư ngành nhân văn; Verlyn Klinkenborg thì thở than về sự xuống dốc và sụp đổ của ngành ngữ văn[2], còn Stanley Fish thì chỉ trích báo cáo này là tầm thường và nhạt nhẽo và những "khuyến nghị của nó chỉ có thể có kết quả trong xã hội không tưởng "(và vì là một người theo chủ nghĩa Milton, ông biết rõ chúng ta tất nhiên không đang sống trong xã hội không tưởng).

Đã có những nỗ lực dũng cảm để chống đỡ những lời phê phán ảm đạm gần đây về “sự khủng hoảng của các ngành nhân văn.”

Nhưng ngay cả nếu "sĩ số trong những lớp học của chúng ta không bị giảm sút", thì chúng ta vẫn chưa đề cập đến công chúng nói chung. Và ở đây, vẫn tồn tại một tranh luận chưa ngã ngũ: cho đến nay, sự thật hiển nhiên là các ngành nhân văn hoàn toàn "thất bại trong quan hệ công chúng" (Fish đang nhại lời của Klinkenborg[3]). Các ngành nhân văn rõ ràng không thể giải thích được tại sao chúng lại cần thiết đối với mọi người. Vì vậy chẳng ngạc nhiên gì nếu như công chúng không mấy quan tâm gì đến những nỗ lực của họ.

Mặc dù vấn đề tiếp thị là rất quan trọng đối với cuộc tranh luận này, nhưng hiện nay hầu như không ai nhắc tới nó. Riêng với tôi, nó đặt ra một câu hỏi rất cơ bản: tại sao những người giảng dạy trong ngành xã hội nhân văn lại phải tự quảng cáo cho mình? Những người hoạt động trong các lĩnh vực sáng tạo khác đều có các nhà quản lý, đại lý và các nhà quảng cáo cho họ, chưa kể là còn có các hãng phim, nhà hát, phòng trưng bày và bảo tàng – nói cách khác là những điều kiện giúp cho họ tập trung vào những gì họ làm tốt nhất; đó là: sáng tạo.

Nếu có một tổ chức tương tự như tôi đã nói ở trên thì nó hoạt động như thế nào nhỉ? Thật may, tôi đang lãnh đạo một tổ chức như thế: Tổ chức Lễ hội nhân văn Chicago (Chicago Humanities Festival)[4], nơi tôi đang là giám đốc nghệ thuật, cũng là tổ chức lớn nhất của loại hình này tại Hoa Kỳ. Thật ra, tổ chức của chúng tôi đã được nêu tên ngay trong báo cáo "The Heart of the Matter", được ca ngợi về sự thành công trong việc "thu hút các học giả và các nghệ sĩ đến chia sẻ niềm đam mê và tài năng của họ với khán giả mới."

Lễ hội nhân văn Chicago đã hoạt động được đến năm thứ 24. Đợt lễ hội mùa thu hàng năm của chúng tôi tổ chức khoảng 100 sự kiện về  cùng một chủ đề. Lượng người tham gia là khoảng 50.000 lượt, và có hàng trăm ngàn lượt khán giả thưởng thức các sản phẩm của chúng tôi dưới hình thức kỹ thuật số. Rõ ràng đó không phải là sự thất bại về quan hệ cống chúng – chúng tôi tin như thế.

Nhưng chúng tôi đã làm điều đó như thế nào? Làm cách nào mà chúng tôi lại có thể thu hút được hàng ngàn người đến nghe các giáo sư thuộc các ngành nhân văn giảng bài?

Thực ra, mọi việc khá đơn giản: chúng tôi xem các diễn giả như các ngôi sao và các sự kiện của chúng tôi như các buổi biểu diễn.

Tôi nghĩ, để hiểu sự thành công của chúng tôi thì tốt nhất là so sánh cách chúng tôi vận hành với cách vận hành của một chương trình đại học điển hình. Ừ, các bài giảng trong trường cũng miễn phí và mở rộng cho công chúng. Nhưng công chúng làm cách nào để biết được điều ấy? Những tờ thông báo xấu xí dán trên bảng thông báo hẳn khó lòng thu hút được sự chú ý của công chúng. Và công chúng hẳn chẳng thích thú gì với những bài thuyết trình chuyên sâu và khô khan. (Ở đây tôi muốn nói thêm rằng với tư cách là một giảng viên đại học, tôi có thể cũng rất thích thú khi đọc các thông báo dày đặc chữ trên các listserv, tuy nhiên cũng phải nhấn mạnh rằng tôi đã có sẵn sự yêu thích đối với những sản phẩm đó rồi.)

Tất cả những gì chúng tôi làm tại Lễ hội nhân văn Chicago đều nhằm phá vỡ những rào cản như vậy. Chúng tôi viết các bản quảng cáo đầy khiêu khích về các sự kiện của chúng tôi, đăng quảng cáo trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng địa phương, và hối thúc báo đài đã đăng quảng cáo phải viết tin về các sự kiện của chúng tôi.

Và chúng tôi đảm bảo rằng các tài năng mà chúng tôi muốn giới thiệu phải được xuất hiện một cách nổi bật nhất. Chúng tôi phải chuẩn bị sắp xếp sân khấu và phông nền, đồng thời chuẩn bị âm thanh một cách kỹ lưỡng nhất. Quan trọng hơn, chúng tôi dành rất nhiều thời gian để suy nghĩ về việc giới thiệu các “diễn viên” của chúng tôi đến công chúng. Vị giáo sư lịch sử của Đại học Harvard mà chúng tôi mời đến có thói quen nói dài khi diễn thuyết chăng? Không sao, chúng tôi sẽ sắp xếp cho ông trao đổi với nhà báo có phong cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết và hiểu biết rất sâu sắc về vấn đề mà giáo sư đó sẽ trình bày. Người ta lo ngại về tính hàn lâm của bài báo cáo về triết học Châu Âu chăng? Không sao, chúng tôi sẽ huấn luyện cho người trình bày cách tận dụng các phương tiện truyền thông để bài trình bày sao cho sinh động hơn.

Với tất cả sự chuẩn bị này, chúng tôi có được một lượng đông đảo khán giả háo hức, những người mà sau khi đắm mình trong sự uyên bác của các diễn giả (và đôi khi chính bản thân họ cũng đưa ra những câu hỏi sâu sắc một cách bất ngờ), sẽ trở về một cách háo hức muốn trở lại để nghe nữa.

 Cách làm chúng tôi làm chẳng khác gì cách vận hành của các tổ chức văn hóa khác. Ví dụ như trong việc biểu diễn opera, một lĩnh vực mà nếu xét theo cái nhìn khắt khe của thời đại ngày nay thì chẳng lấy gì làm thực dụng lắm. Khi người ta lên kế hoạch để mời giọng nữ cao Anna Netrebko đến biểu diễn tại Chicago trong mùa biểu diễn 2012-13, điều đó đã gây ra cơn sốt chờ đợi của những tín đồ opera địa phương. Nhưng đối với nhiều khách hàng quen thuộc của nhà hát Lyric Opera, cô ấy chỉ là một nghệ sĩ không tên không tuổi. Vì vậy, nhà hát cần phải tạo ra sự kích động về sự xuất hiện của cô không kém gì ca sĩ opera lừng danh Mimi[5], chưa kể là phải cung cấp cho cô ấy mọi đạo cụ sân khấu cần thiết để đảm bảo một buổi diễn tối ưu. Kết quả là buổi diễn đã cháy vé và gần như tạo ra một hiệu ứng cuồng loạn tập thể (tất nhiên là theo nghĩa tốt).

Vậy tại sao các ngành nhân văn lại làm khác? Rõ ràng, trong giới hàn lâm, chúng ta cũng thừa nhận những nhân vật như Julia Kristeva, Frans de Waal, và Maria Tatar là những ngôi sao (chúng tôi nêu tên ba diễn giả sẽ đến trình bày cho chúng tôi trong Festival mùa Thu năm nay về chủ đề “Động vật: Điều gì giúp phân biệt con người với các động vật khác”). Nhưng cũng giống như một diva opera hạng trung, họ cần được tiếp thị chuyên nghiệp và được đạo diễn cẩn thận để thu hút khán giả. Với tư cách là nhà tổ chức biểu diễn trong lĩnh vực nhân văn thì đó chính là công việc của chúng tôi. Sau 24 năm kinh nghiệm, giờ đây chúng tôi đã biết làm điều đó như thế nào.

Hãy bắt chước chúng tôi!


[2] Bản gốc tiếng Anh ghi là ngành English, dịch chính xác là ngành Anh văn, nhưng thực ra đây là ngành nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn học Anh dành cho sinh viên bản ngữ, tức tương tự như ngành Ngữ văn của Việt Nam.
[3] Cả Fish lẫn Klinkenborg đều là tác giả của nhiều bài viết về sự xuống dốc của khối ngành nhân văn trên tờ New York Times. Ví dụ như những bài gần đây: http://www.nytimes.com/2013/06/23/opinion/sunday/the-decline-and-fall-of-the-english-major.html;  http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/06/24/a-case-for-the-humanities-not-made/?_r=0
[4] http://chicagohumanities.org/

Wednesday, September 11, 2013

"Nhiệt liệt chào mừng 40 năm quan hệ ngoại giao ..." nên dịch như thế nào?

Entry ngắn này tôi viết nhân đọc một bài viết trên fb của nhà báo NVP, vốn cũng là một giảng viên tiếng Anh ở trường ĐHSP. Một bài viết rất hay về việc dùng từ Welcome ở VN. Xin đọc tại đây: https://www.facebook.com/nguyenvanphu/posts/10201410210090859.

Trong bài trên, anh NVP có nhận xét về cách dùng sai từ Welcome trong khẩu hiệu chào mừng 40 năm quan hệ ngoại giao VN và UK, những khẩu hiệu hiện đang treo đầy đường phố SG. Xin trích một đoạn ở đây:

Đó là câu “Welcome to the 40th anniversary of diplomatic relations between the Socialist Republic of Vietnam and the United Kingdom”, với câu tiếng Việt tương đương “Nhiệt liệt chào mừng kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Anh”.

Câu hỏi mà bài viết của anh NVP đặt ra cho người đọc, trong đó có tôi, là nên dịch khẩu hiệu nói trên như thế nào nhỉ? Và dưới đây là câu trả lời - well, gợi ý - của tôi.

Nhiệt liệt chào mừng thì chắc chắn là Tây không nói rồi, vì đó là kiểu nói của VN (có lẽ ảnh hưởng tiếng Hán chăng). Nhưng họ vẫn có một từ tương đương để dùng trong những dịp như thế này, đó là từ "commemorate". Dịch chính xác từ này ra tiếng Việt thì nó là "(tổ chức) kỷ niệm". Còn "40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao" thì anh Phú đã nói rồi, nhưng tôi thấy khẩu hiệu trên của TP HCM dịch không sai, vì nhiều nơi cũng dịch tắt như thế (không cần từ "thiết lập"). Ví dụ như trên trang của Chính phủ Úc có viết: "40th anniversary of diplomatic relations"

Xem tại đây: http://www.dfat.gov.au/acc/our-relations/40th-anniversary-of-diplomatic-relations.html

Khẩu hiệu nói trên vì vậy chỉ cần thay mấy từ "Welcome to" thành "Commemorating" là được. Tuy nhiên, tôi nghĩ kiểu nói "diplomatic relations between the Socialist Republic of Vietnam and the United Kingdom” vừa dài dòng không cần thiết, vừa không hay, nên được đổi lại thành "Vietnam - UK diplomatic relations".

Và như vậy, khẩu hiệu vừa nêu nên được dịch thành: "Commemorating the 40th anniversary of Vietnam-UK diplomatic relations", vì như thế là chính xác đến từng chữ (well, gần như từng chữ) mà không làm sai tiếng Anh, không rơi vào tình trạng đọc lên thấy ... kỳ kỳ!

Từ commemorate cũng được dùng trên báo chí ở nhiều nơi, ví dụ như trong những links sau:

http://www.philstar.com/letters-editor/518676/fiesta-filipinas-commemorating-40th-anniversary-rp-singapore-diplomatic

http://www.cie.mie-u.ac.jp/en/cier/new/commemoration-of-the-40th-anniversary-for-the-normalization-of-diplomatic-relations-between-japan-an.html

http://www.chihiro.jp/global/en/tokyo/exhibition/02.html?keepThis=true&TB_iframe=true&height=440&width=407

http://www.state.gov/r/remarks/2013/207366.htm

Thực ra, còn một từ khác có thể sử dụng để diễn đạt khẩu hiệu trên, đó là từ "celebrating" (nghĩa đen là "ăn mừng"); từ này cũng được nhắc đến trong bài viết của anh NVP. Nếu tra trên mạng bạn cũng sẽ tìm thấy nhiều câu có dùng từ celebrating. Tuy nhiên, theo tôi thì "celebrating" nhấn mạnh các hoạt động (triển lãm, hội thảo, văn nghệ, chiêu đãi) nhân dịp kỷ niệm, còn "commemorating" thì tổng quát hơn, chủ yếu nhắc đến dịp kỷ niệm, còn nhân dịp này người ta celebrate như thế nào thì lại là chuyện khác. Và tôi nghĩ khẩu hiệu đang treo trên đường phố có ý nghĩa tổng quát. Từ "celebrating" có lẽ hợp hơn khi nói đến một số hoạt động cụ thể nào đó.

Tuy nhiên, vẫn còn một việc đáng bàn. Tôi vẫn cảm thấy cái khẩu hiệu bắt đầu bằng "commemorating" (hoặc "celebrating") là kỳ kỳ, không đúng kiểu tiếng Anh. Thực ra, tiếng Anh là một ngôn ngữ không thích động từ, trừ phi bắt buộc. Các khẩu hiệu, bảng hiệu, hoặc tựa sách báo vv trong tiếng Anh đa số đều dùng danh từ. Commemorating/Celebrating thì cũng là một loại danh từ rồi đó, nhưng mà là "danh động từ", tức là động từ nhưng chuyển sang dạng danh từ để phù hợp với chức năng trong câu. Vì là "danh động từ" nên nó vẫn có cái nằng nặng của động từ, nghe không thanh.

Vì vậy, theo tôi chỉ cần dùng: "40th anniversary of Vietnam-UK diplomatic relations" hoặc thậm chí "... diplomatic ties" như cách dịch của anh NVP thì lại càng hay hơn nữa. Vì nghe nó nhẹ nhàng, tự nhiên, không nặng nề, rổn rảng. Không giống như tiếng Việt, cái gì cũng phải nói rõ ra, lại còn phải kêu lốp bốp nữa, thì mới ... hay!

Nói gọn trong một câu: Do khác biệt văn hóa, nên dịch cũng phải khác!

Các bạn trao đổi thêm nhé?

"7 biện pháp phát triển thói quen tốt trong việc học ngoại ngữ" (Language News)

Đó là tựa của một bài viết mới trên trang Transparent Language Online mà theo tôi là - dù không hẳn là mới - có nhiều điểm đáng lưu tâm đối với người học ngoại ngữ ở VN.

Bản đầy đủ xin bạn đọc ở trang gốc, link đây: http://blogs.transparent.com/language-news/2013/09/09/7-ways-to-develop-good-habits-in-language-learning/. Còn dưới đây tôi xin nêu bảy biện pháp đó kèm lời dẫn giải của tôi, để bạn suy nghĩ áp dụng nếu thấy phù hợp.

1. Tạo mục tiêu - Vâng, đúng ạ, làm gì cũng phải có mục tiêu và bám sát mục tiêu, thì mới có thể thành công được. Và đã là mục tiêu, thì phải SMART - tức là specific, measurable, achievable, realistic, và time-bound. Cụ thể, đo được, đạt được, thực tế, và có hạn định. Ví dụ: Sau 1 tháng sẽ nắm vững hệ thống thì (tenses) của tiếng Anh. Hoặc sau 6 tháng sẽ đạt được trình độ A2 (trình độ A2 là gì, xin các bạn xem lại những bài viết về Khung quy chiếu châu Âu CEFR).

2. Sắp xếp chỗ học thuận tiện - Tưởng là điều không quan trọng, hóa ra lại rất quan trọng bạn ạ. Theo tôi nên tối thiểu có một cái bàn, một kệ sách nhỏ với những tài liệu và từ điển, một laptop hoặc desktop computer có loa, âm thanh tốt, và phần mềm video player vv. Không gian yên tĩnh, mát mẻ, thoải mái thì sẽ dễ tiếp thu hơn. Tất nhiên theo điều kiện của từng người.

3. Xác định tiến độ - Bạn sẽ biết rõ nhất mình nên học với tốc độ như thế nào, vì điều này tùy thuộc vào thói quen học tập và điều kiện thời gian của bạn. Nên nhớ: Dục tốc bất đạt! Tôi nhớ trước năm 1975 có tác giả nào đó đã nói: trong việc học ngoại ngữ, tốc độ tốt nhất là "từ từ và đều đều". Và tôi hoàn toàn đồng ý!

4. Tận dụng thời gian chết - Trong ngày của bạn sẽ có những khoảng thời gian chết. Hãy tận dụng chúng cho việc học ngoại ngữ. Chẳng hạn, mở máy nghe nhạc bằng tiếng nước ngoài khi ngồi trên xe buýt, hoặc khi làm bếp, làm việc nhà vv. Điều này sẽ giúp bạn tiếp thu ngôn ngữ một cách tự nhiên, tương tự như khi học tiếng mẹ đẻ.

5. Tự kiểm tra sau mỗi tháng - Đều đặn hàng tháng, bạn nên tự kiểm tra lại những gì mình đã đạt được. Sự kiểm tra đều đặn này giúp bạn kết nối mục tiêu đã đặt ra và những thành quả đã đạt được (hoặc chưa đạt được) và điều chỉnh việc học của mình.

6. Tự điều chỉnh cách học - Bạn biết rồi đấy, sau mục 5 ở trên thì bạn sẽ hiểu là mình cần điều chỉnh những gì.

7. Tự biết mình - Ý của tác giả ở đây là, nếu bạn thấy mình chậm đạt mục tiêu thì chỉ có bạn mới hiểu được điều đó là do đâu. Đôi khi cần điều chỉnh mục tiêu, vì có thể cuộc sống của bạn không cho phép bạn dành nhiều thời gian hơn cho việc học ngoại ngữ. Chỉ cần "từ từ và đều đều", rồi thì bạn sẽ giỏi ngoại ngữ hồi nào không hay!

Dễ quá phải không các bạn?

Sunday, September 8, 2013

"Chất lượng giáo dục Việt Nam chỉ đứng áp chót ASEAN"

Trong tổng số 8 nước ASEAN được xếp hạng về tính hiệu quả của hệ thống giáo dục, Việt Nam đứng vị trí thứ 2… từ dưới lên, sau đúng Thái Lan. Kết quả xếp hạng này do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đánh giá dường như trái ngược với những bản báo cáo thành tích về số lượng dày đặc các học sinh giỏi, học sinh tốt nghiệp, Thạc sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư tại Việt Nam.
Giáo dục Việt Nam còn thua cả Campuchia
Cụ thể, theo báo cáo về tính Cạnh tranh toàn cầu của WEF được công bố vào đầu tháng 9, Singapore, Malaysia và Brunei Darussalam lần lượt giữ các vị trí hàng đầu. Trong khi đó, Campuchia đứng thứ 6, Việt Nam thứ 7 và Thái Lan ở cuối bảng. Lào và Myanmar không được WEF xếp hạng.
 
Bản báo cáo của WEF nhấn mạnh, tiềm lực tài chính không phải là yếu tố quan trọng nhất để bảo đảm chất lượng cho nền giáo dục và việc trả lương cao cho giáo viên chưa hẳn đã mang lại một khả năng giảng dạy thích hợp.
 
Phản ứng về bản báo cáo này trên tờ Bankok Post ngày 4/9, ông Sathon Vijarnwannaluk, một giảng viên tại khoa khoa học CU tại Bangkok cho rằng, kết quả chỉ phản ánh tính cục bộ địa phương do mẫu khảo sát (theo thang điểm từ 1-7) chỉ lấy ý kiến của người Thái. Điều này cho thấy, người Thái không có niềm tin vào hệ thống giáo dục chứ chưa thể khẳng định chất lượng giáo dục của Thái Lan là thấp nhất. Tuy nhiên, Sompong Jitradup, giảng viên Khoa giáo dục CU đã thành thật thừa nhận, khảo sát đã phản ánh một phần sự thật, đặc biệt tình trạng xã hội phân hóa, chất lượng giáo dục không đạt chuẩn. Còn ông Phongthep Thepkanchana, Phó Thủ tướng Thái Lan không ngại ngần thừa nhận thực trạng giáo dục yếu kém trong nước và khẳng định Thái Lan có đù nguồn lực và khả năng để vực dậy các chương trình đào tạo cũng như chất lượng giáo viên.
 
PGS.TS Phạm Văn Sơn, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực đánh giá trên báo Đầu Tư (3/9), nếu Việt Nam không giải quyết được bài toán nguồn nhân lực chất lượng, thì các doanh nghiệp sẽ tụt giảm sức cạnh tranh và mãi dậm chân ở mắt xích cuối cùng của chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tại Việt Nam, thực trạng giáo dục tụt hậu vẫn luôn vấn đề nhức nhối. Chỉ riêng trong giáo dục đại học, từ năm 1992, ngay trong báo cáo “Phân Tích về Giáo Dục và Tài Nguyên Nhân Lực” do UNESCO cùng UNDP và Bộ Giáo Dục phối hợp nghiên cứu đã cho thấy sự giảm sút trầm trọng về chất lượng ở giáo dục. Và tình trạng giáo dục ở các cấp khác cũng không là ngoại lệ.
 
Nếu như kết quả WEF chỉ được coi là phản ánh tình trạng người dân Việt Nam mất niềm tin vào chất lượng giáo dục nước nhà thì đánh giá của Ngân hàng Thế giới cho thấy rõ hơn tình thế tụt hậu khi Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 điểm về chất lượng lao động, đứng thứ 11/12 nước châu Á được xếp hạng. Tụt hậu kinh tế song hành cùng tụt hậu giáo dục sẽ đẩy một quốc gia vào ngõ hẹp khi chất lượng lao động không đủ nguồn lực tái tạo. Nghĩa là một tương lai sẽ đến, không đẹp như các bản báo cáo thành tích.
 
 
Vân Du