Đây là link bài viết mới của tôi, vừa đăng trên NDCT vào cuối tuần qua.
http://www.nhandan.com.vn/cuoituan/item/35815202-phat-trien-he-thong-giao-duc-mo-thoi-4-0.html
---------
Và dưới đây là bài gốc, có khác đôi chút với bài đã đăng.
Giáo dục mở trong thời đại công nghiệp 4.0
Anh Vũ
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 Khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ngày 4-11-2013 đã khẳng định, phải “đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo”. Trong đó việc “hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở (GDM), học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” được xem là một trong những nhóm nhiệm vụ và giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu đổi mới.
Đến sớm nhưng vẫn chậm
Căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu, có thể xác định hai đặc điểm chính của một hệ thống GDM (theo cách hiểu và đặc trưng của Việt Nam) là “linh hoạt, liên thông giữa các yếu tố bên trong hệ thống và liên thông với môi trường bên ngoài” (tính chất nội tại của nền giáo dục) và “tăng cường cơ hội tiếp cận giáo dục cho tất cả mọi người ở mọi nơi, mọi lúc” (lợi ích mà nền giáo dục ấy mang lại cho người học).
Như vậy, GDM vừa là một quan điểm chỉ đạo, vừa là mục tiêu phấn đấu, đồng thời cũng là giải pháp để xây dựng một nền giáo dục tiên tiến phù hợp với những yêu cầu của thời đại, khắc phục và giải quyết dứt điểm những yếu kém, cản trở mà nền giáo dục Việt Nam đã vấp phải bấy lâu nay, mà một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là sự thiếu thốn về nguồn lực dành cho giáo dục.
Nhìn lại lịch sử phát triển của GDM, có quan điểm cho rằng GDM tại Việt Nam chỉ mới bắt đầu những bước chập chững từ năm 2005, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Quỹ Giáo dục Việt Nam-Hoa Kỳ (VEF) phối hợp với Công ty Phần mềm và truyền thông VASC triển khai dự án Học liệu mở Việt Nam (Vietnam Open Course Ware, VOCW).
Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi thì GDM đã tồn tại ở Việt Nam từ trước đó khá lâu, và nhiều mô hình GDM từng tồn tại trên thế giới đã được thử nghiệm áp dụng tại Việt Nam ở thời điểm này hoặc thời điểm khác. Qua nhiều thời điểm bị gián đoạn, đến đầu thập niên 1990, hai trường “đại học mở” đầu tiên và duy nhất của Việt Nam được thành lập là Đại học Mở TP Hồ Chí Minh và Viện đại học Mở Hà Nội vào năm 1993, với sứ mạng phát triển GDM và từ xa. Đây là những nơi cung cấp các chương trình đào tạo mở (được hiểu với nghĩa từ xa và/hoặc không khống chế đầu vào).
Sau đó không lâu, vào năm 1997, khi tỉnh Sông Bé được tách ra thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước, triết lý GDM và sứ mạng phát triển một nền GDM đã từ cái nôi xuất phát của mình là Đại học Mở - Bán công lan rộng ra để phát triển tại tỉnh Bình Dương thông qua trường đại học đầu tiên được thành lập tại địa phương này là trường Đại học Bình Dương. Một năm sau, vào năm 1998, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh cũng thành lập Trung tâm phát triển công nghệ thông tin (thường được biết đến dưới tên gọi tắt tiếng Anh là CITD) với các chức năng nghiên cứu - giảng dạy - sản xuất liên quan đến ngành công nghệ thông tin, trong đó việc giảng dạy được thực hiện từ xa qua mạng (tức mô hình trực tuyến hoặc “GDM thế hệ thứ hai”). Sự thành công của chương trình đào tạo từ xa của CITD đã thúc đẩy các chương trình tương tự trên khắp cả nước mà đặc biệt là tại TP Hồ Chí Minh. Có thể kể một số tên tuổi nổi tiếng như các chương trình trực tuyến ở các trường đại học: Khoa học tự nhiên và Bách khoa (hai trường thành viên của ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh), Kinh tế quốc dân, Đà Nẵng, Thái Nguyên... Có thể nói, hình thức đào tạo trực tuyến hiện nay đã rất phổ biến, và có tại hầu hết các trường đại học lớn ở Việt Nam.
Như vậy, GDM tại Việt Nam đã có một lịch sử tồn tại khá lâu, với một tốc độ phát triển không quá chậm so với các nước trên thế giới. Điều này cũng dễ hiểu, vì người Việt Nam nổi tiếng trên thế giới là một dân tộc hiếu học. Mặc dù vậy, cho đến nay GDM của Việt Nam vẫn chỉ làm được một việc duy nhất là cung cấp các chương trình đào tạo đến với người học ở xa (vượt qua khoảng cách địa lý) và không đòi hỏi phải thi đầu vào (xóa bỏ rào cản vô hình mà ở đây là rào cản chính sách), tức dừng lại ở “thế hệ thứ hai” của GDM chứ chưa bước sang được “thế hệ thứ ba” đầy sôi động.
Không những thế, GDM tại Việt Nam luôn đóng vai trò thứ yếu so với giáo dục truyền thống, mà không được nhìn nhận như một thành phần cần thiết, thậm chí là bước đột phá quan trọng trong giáo dục, như ở nhiều nơi khác trên thế giới. Thật vậy, khi so sánh với các quốc gia khác trong khu vực, ta thấy dù các trường đại học mở đầu tiên của Việt Nam đã ra tồn tại một phần tư thế kỷ nay, nhưng chúng ta vẫn không hề có một tên tuổi lớn nào như Sukhothai Thamathirat Open University (STOU) của Thái-lan (thành lập năm 1978) hoặc University of the Philippines Open University (UPOU) của Phi-li-pin (thành lập năm 1995, hai năm sau hai đại học mở của Việt Nam). Có nhiều nguyên nhân cho điều này, trong đó nguyên nhân là tâm lý của toàn xã hội cho rằng điều gì dễ dàng đều có giá trị thấp; giáo dục có chất lượng phải là giáo dục ưu tú với những kỳ thi tuyển gắt gao. Một nguyên nhân quan trọng khác là sự thiếu đầu tư của nhà nước. Nhưng, quan trọng nhất có lẽ phải kể đến sự chậm đổi mới của tư duy quản lý giáo dục tại Việt Nam.
Thật vậy, cho đến nay tại Việt Nam vẫn tồn tại quan niệm cho rằng con đường đi đến một nền giáo dục có chất lượng chỉ có một cho mọi loại hình trường và mọi đối tượng người học, bất kể sự đa dạng vốn có của cuộc sống. Hệ quả tất yếu của quan niệm lỗi thời ấy là tư duy xem trách nhiệm của nhà quản lý đơn giản chỉ là “kiểm soát sự tuân thủ”, mà quên mất trách nhiệm lớn hơn của mình là “kiến tạo sự thay đổi” để đáp ứng những đòi hỏi của thời đại trước những thay đổi vũ bão mà cuộc cách mạng thông tin-truyền thông đã tạo ra từ những thập niên cuối của thế kỷ 20 cho tới nay.
Mở cơ hội cho mọi người
Khi xem xét định nghĩa, lịch sử phát triển, và các mô hình khác nhau của GDM trên thế giới, ta có thể nhận ra quá trình phát triển liên tục và ngày càng tăng tốc của nhu cầu xóa bỏ mọi rào cản đối với việc tiếp cận giáo dục - từ khoảng cách địa lý, giai tầng xã hội, đến rào cản chính sách, phương pháp tổ chức thực truyền đạt, khả năng tương tác, và đến cả chi phí học tập để việc tiếp cận giáo dục trở thành hoàn toàn không còn rào cản.
Sự tăng tốc phát triển của GDM trong vài thập niên gần đây cũng trùng khớp với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong thời đại kinh tế tri thức. Có thể nói, kinh tế tri thức thúc đẩy nhu cầu học tập, dẫn đến những sáng kiến tháo gỡ rào cản trong học tập để tăng quyền tiếp cận giáo dục cho mọi người, và điều này đến lượt nó lại tăng tốc thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật lên một tầm cao mới. Vì vậy, khi nhìn trên phạm vi toàn thế giới, ta sẽ không lạ gì nếu các sáng kiến liên quan đến GDM đều có xuất phát điểm từ các nước công nghiệp phát triển như Anh, Mỹ, Ca-na-đa.
Thế giới ngày nay đang bước vào một cuộc cách mạng công nghiệp mới (CMCN 4.0), một cuộc cách mạng sẽ làm thay đổi toàn bộ cách thức chúng ta sinh sống, làm việc, sản xuất, và tất nhiên, cả cách chúng ta làm giáo dục nữa. Đã xuất hiện thuật ngữ “giáo dục 4.0”, trong đó người học toàn quyền lựa chọn nội dung, phương pháp, nơi chốn và thời gian học tập và thực tập, thực tế; nơi đó các giảng viên không chỉ giảng dạy mà còn đồng thời là người bạn, người hướng dẫn, người cùng làm việc trong các dự án có người học tham gia; ngược lại, người học cũng không chỉ có nhiệm vụ học tập mà còn là người tham gia các dự án cộng đồng, hỗ trợ giảng viên trong việc truyền đạt kiến thức đến bạn bè đang cùng học.
Trong nền giáo dục 4.0 này, người dạy cũng không chỉ là các giảng viên và trường lớp, mà còn là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan chính quyền, hoặc bất cứ nơi nào trong xã hội có nhu cầu sử dụng tri thức để giải quyết những vấn đề đang diễn ra.
Nói vắn tắt, hai đặc điểm cơ bản của giáo dục 4.0 chính là tính mở và linh hoạt cùng vai trò quan trọng của công nghệ thông tin-truyền thông và trí tuệ nhân tạo (AI). Điều này là cần thiết, vì để đáp ứng với những đòi hỏi của CMCN 4.0 với những thay đổi thần tốc như hiện nay thì hiển nhiên cần phải có những con người với những kỹ năng mới mà người ta thường gọi là “kỹ năng của thế kỷ 21”. Đó chính là lý do của sự tăng tốc phát triển của mô hình “giáo dục mở thế hệ thứ ba” với hàng loạt các mô hình mới mẻ như các trường đại học hoàn toàn trực tuyến nơi người học chỉ cần ngồi tại nhà hoặc tại văn phòng và bấm chuột (“click university”), các khóa học trực tuyến mở đại trà (MOOC), các kho tài nguyên giáo dục mở (OER), các phương pháp “học tập di động” (mobile learning) mà người học chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh được nối mạng.
Tất nhiên, tư duy quản lý giáo dục lúc này cũng sẽ đòi hỏi một độ mở tương ứng, để có thể chấp nhận rằng quản lý trong thời đại công nghệ 4.0 không thể là, hoặc chỉ là, “kiểm soát sự tuân thủ” mà cần triệt để trao quyền cho các cơ sở đào tạo và tập trung vào việc “kiến tạo sự thay đổi”sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại.
Bộ mặt của giáo dục dựa trên tư duy “giáo dục mở” sẽ được thay đổi hoàn toàn. Sẽ không còn bất kỳ một rào cản nào ngăn trở nhu cầu học tập của bất kỳ ai. Tất cả những điều này đang diễn ra tại các nước tiên tiến với sự phát triển của GDM trong vòng một thập niên trở lại đây. GDM từ chỗ là một bộ phận thứ yếu trong một nền giáo dục quốc gia sẽ nhanh chóng trở nên một phức hợp duy nhất có tên là giáo dục 4.0 để đáp ứng những yêu cầu của một nền kinh tế mở toàn cầu rộng lớn.
Tiềm năng của GDM đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là vô cùng to lớn, và đó cũng là lý do tại sao Nghị quyết 29 về việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam đã nhắc đến GDM vừa như một chủ trương, vừa là mục tiêu và cũng đồng thời là giải pháp để thay đổi nền giáo dục Việt Nam. Hy vọng rằng với chủ trương đúng đắn và kịp thời này, giáo dục của Việt Nam sẽ mau chóng cất cánh để tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của đất nước.